Mục lục bài viết
Đề tài : Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vận động quần chúng trong thực hiện dân chủ ở cơ sở tại xã Chiềng Tương, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La
I. GIỚI THIỆU
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, mở cửa hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Sự phát triển của đất nước ta về nhiều mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng – an ninh và đối ngoại đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ của quần chúng nhân dân ở cơ sở để phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và phát triển đất nước. .
Mọi vấn đề để nhân dân biết, tham gia, đóng góp ý kiến xây dựng, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Thông qua quy chế dân chủ ở cơ sở, nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp tại nơi cư trú, đơn vị, cơ quan nơi mình công tác.
Xã Chiềng Tương là xã vùng cao của huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La nên việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở còn gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi phải có cơ chế thiết thực, hiệu quả. Nhận thức được tính cấp thiết và tầm quan trọng này, tôi đã chọn chủ đề thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở làm nội dung của bộ sưu tập này.
II. NỘI DUNG
1. Nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ đã chỉ rõ vai trò của Nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước. Tư tưởng của Người đã thừa nhận vai trò quyết định đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, lòng yêu nước của người cách mạng phải đi đôi với yêu nhân dân, trung với nước nghĩa là hiếu với dân. Tư tưởng của Người không chỉ có ý nghĩa khoa học và cách mạng mà còn có giá trị lý luận sâu sắc.
Người cách mạng phải hiểu rõ vị trí, vai trò của Nhân dân , thực hiện quy chế dân chủ bằng thái độ cầu thị, trách nhiệm. Người cho rằng, niềm vinh quang của người cán bộ là chăm lo cho đời sống của nhân dân bởi trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân.
Trong sự nghiệp cách mạng của Người, sức mạnh của Nhân dân cũng như khối đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng và phát triển. Trước hết, người cán bộ phải hiểu dân, quan tâm và bảo đảm lợi ích chính đáng của nhân dân thì mới được nhân dân tôn trọng.
Nhận thức toàn diện, sâu sắc vai trò của Nhân dân, phát huy dân chủ, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Trong tư tưởng của Người, dân chủ là của dân và dân là chủ.
Xây dựng Nhà nước thực sự dân chủ, tiến bộ là làm cho nhân dân hiểu rõ quyền làm chủ của mình, hiểu rằng quyền phải đi đôi với nghĩa vụ của công dân trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ.
Tôn Dân là khi Dân chưa hiểu thì phải giải thích cho Dân hiểu. Vì vậy, người cán bộ phải gần dân, lắng nghe dân, học hỏi dân để lãnh đạo nhân dân, phát huy dân chủ. Quan tâm công tác xóa mù chữ, nhất là chú trọng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân.
Trong tư tưởng đạo đức của Người, Nhân dân là người chủ thực sự của đất nước, thực hiện các quyền dân chủ của mình theo quy định của pháp luật, chứ không phải là những giai cấp thấp hèn, hèn hạ.
Người căn dặn, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải có ý thức tôn trọng Nhân dân, nâng cao chuẩn mực đạo đức, việc gì dễ mười lần dân không chịu cũng thành khó, việc gì khó mà dân còn khó gấp trăm lần. để biết. xong, vì sức dân là sức nước.
Nêu cao những tấm gương trong sạch, liêm chính qua thực hiện nhiệm vụ của người cán bộ, đảng viên, chiến sĩ cũng là đạo đức của Nhân dân. Đặc biệt phải xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật những đối tượng tham ô, tham nhũng trong bộ máy cơ quan Nhà nước.
Nâng cao tính tích cực của công dân, phát triển dân trí, văn hóa chính trị, tạo điều kiện để nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng đất nước. Tạo cơ chế để nhân dân phát huy quyền làm chủ theo quy định của pháp luật. Mối quan hệ giữa cán bộ Nhà nước với nhân dân là một nội dung quan trọng trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, vì vậy cần nhận thức rõ vấn đề này.
Cán bộ phải thực sự cầu thị, không được chủ quan, phải gần dân, đi theo đường lối của Đảng, hướng dẫn quần chúng thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, kiên quyết dựa vào quần chúng nhân dân.
Hồ Chí Minh đã để lại cho thế hệ mai sau nhiều phẩm chất đạo đức quý báu, đề cao phẩm chất chí công vô tư trong lối sống và việc làm, đề cao chủ nghĩa tập thể, bài trừ chủ nghĩa cá nhân. Người chỉ rõ, làm cán bộ thì lòng phải luôn hướng về Đảng, Tổ quốc, đồng bào, phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ,
Làm quan thì phải hết lòng, hết sức phục vụ Nhân dân, yêu nước, thương dân, chiến đấu quên mình. Động lực tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là lợi ích của Đảng, lợi ích của nhân dân lao động và lợi ích giải phóng giai cấp. Theo Người, Đảng phải chăm lo đời sống của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, lãnh đạo nhân dân phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. văn hóa nhân dân.
Chú trọng chăm lo đời sống, giải quyết việc làm cho nhân dân không chỉ trong thời kỳ cách mạng giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn, lạc hậu mà cả trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ông luôn giữ nhân cách giản dị ngay cả khi giữ cương vị cao nhất, không ngừng học hỏi quần chúng. Luôn tiếp thu ý kiến phê bình, quan tâm lắng nghe ý kiến của Nhân dân, điều này đã làm nên phong cách tôn trọng Nhân dân của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh luôn quan tâm giải quyết những kiến nghị chính đáng của nhân dân, thể hiện thái độ yêu thương, tôn trọng con người, không bao giờ tự cho mình là vĩ đại hay tự cho mình cao hơn người khác.
Đặc biệt, đồng chí nhấn mạnh vai trò của phụ nữ, căn dặn Đảng, Chính phủ chú trọng bồi dưỡng, bảo đảm tỷ lệ nữ phù hợp trong đội ngũ cán bộ, lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Không chỉ vậy, nhân cách của anh còn thể hiện ở việc kính trọng người già, yêu trẻ nhỏ.
Ông luôn dành thời gian tìm hiểu tâm tư, tình cảm, lắng nghe nhân dân, thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Phong cách quần chúng, phát huy dân chủ của Người thể hiện ở việc Người đi cơ sở, đến hầm mỏ, công trường, bệnh viện, trường học, ra đồng cùng bộ đội, v.v.
Người thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, đồng cảm với cuộc sống quanh mình. Có như vậy, mỗi khi cán bộ về với Nhân dân, hòa nhập với cuộc sống của nhân dân, Dân mới dám nói, dám phê bình. Người đề cao ý thức dân chủ, tôn trọng tập thể, phát huy dân chủ trong Đảng, phát huy vai trò của quần chúng.
Đồng chí chỉ rõ, chăm lo chu đáo, hết lòng vì đời sống của nhân dân là nhiệm vụ, chủ trương của Đảng và Chính phủ. Cán bộ Đảng, Nhà nước từ trên xuống dưới phải luôn nêu gương đi đầu trong chống lãng phí, tham nhũng. Đồng thời, lãnh đạo, tổ chức và giáo dục nhân dân không để nhân dân bị đói, rét, bệnh tật, phát triển kinh tế, nâng cao dân trí.
2. Nhận thức về đường lối dân chủ của Đảng
Nhận thức sâu sắc tư tưởng của Người về vấn đề dân chủ, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trách nhiệm, gần dân, có bản lĩnh chính trị. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tiên phong, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, có ý thức kỷ luật tự giác.
Xây dựng cơ chế để nhân dân tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, xây dựng đất nước, nhất là trong cán bộ, đảng viên. Đồng thời, cần đổi mới và tăng cường công tác vận động quần chúng, quan tâm hơn nữa mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân.
Phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Tạo cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến, tạo lòng tin, sự tôn trọng của nhân dân đối với mỗi cán bộ, đảng viên và giải quyết các kiến nghị, khiếu nại của nhân dân.
Tiếp tục bảo đảm nhân dân được tham gia ý kiến, tham gia thảo luận, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân giám sát các lĩnh vực quản lý nhà nước.
Thực hiện các nội dung của Hiến pháp năm 2013, thực hiện quyền con người, quyền công dân nhằm giữ vững đạo đức xã hội, tôn trọng và bảo vệ các quyền của công dân. Phát huy dân chủ trong Đảng, vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc.
Các cấp, ngành, địa phương quán triệt sâu sắc mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân. Phải hợp lòng dân, tạo điều kiện để người dân yên tâm lao động, sản xuất, học tập. Cân đối hài hòa lợi ích, gắn nghĩa vụ với lợi ích chính đáng của các tầng lớp trong xã hội.
3. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại xã Chiềng Tương, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La.
3.1 Đặc điểm tình hình
Chiềng Tương là một xã vùng cao biên giới thuộc huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La. Xã có đường biên giới dài 21,3 km tiếp giáp với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Chiềng Tương là xã có vị trí chiến lược quan trọng ở vùng Tây Nam huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La.
Phía đông xã giáp xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu; Nam giáp khu Tà Diên, huyện Sốp Bâu, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; Tây giáp khu Mông Nậm, huyện Xiêng Khoảng, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; Bắc giáp xã Lóng Phiêng, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La. Xã có 9 bản: Pa Kha I, Pa Kha II, Pa Kha III và Bó Hin. Pom Khốc, Dìn Chỉ, Pà Khốm, Dế A, Cơ Lăk.
Về dân số, xã hiện có 849 hộ với tổng dân số 4.390 nhân khẩu, sinh sống của 03 dân tộc anh em là Thái, Kinh, Mông.
Đất đai xã Chiềng Tương chủ yếu là đồi núi đá, thích hợp trồng cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, có tiềm năng cây gỗ quý, dược liệu và đá phục vụ sản xuất, vật liệu xây dựng.
Tháng 6 năm 1955, thành lập xã Chiềng Tương thuộc huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Xã được sáp nhập vào huyện Yên Châu từ tháng 4 năm 1979. Chi bộ Đảng và các đoàn thể được thành lập năm 1961, chi bộ gồm 07 đảng viên. Hiện nay, số lượng Đảng viên của Đảng bộ xã Chiềng Tương là 205 đảng viên.
3.2 Kết quả thực hiện quy chế dân chủ ở xã Chiềng Tương
Thời gian qua, Đảng ủy xã đã chỉ đạo thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở. Ban Chỉ đạo cấp xã về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở giai đoạn 2020-2025 đã được kiện toàn. Từng thành viên BCĐ xã được phân công nhiệm vụ cụ thể, phụ trách từng lĩnh vực.
Quyền làm chủ của công chức, viên chức, người lao động và quần chúng nhân dân được nâng cao, người đứng đầu cơ quan, đơn vị thể hiện vai trò gương mẫu, trách nhiệm.
Các Nghị quyết, Chỉ thị, văn bản của Đảng, Nhà nước về thực hiện dân chủ ở cơ sở được cấp ủy Đảng, chính quyền và các ban, ngành xã Chiềng Tương cụ thể hóa. Thông qua đó, các phong trào, cuộc vận động trên nhiều lĩnh vực trong nhân dân đạt kết quả cao, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Kinh tế, văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống nhân dân ổn định, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp dân được giải quyết và thực hiện kịp thời.
Với quy mô lớn, xã đã xây dựng 02 đơn vị đóng trên địa bàn và 04 trường học: Đồn biên phòng Chiềng Tương, Trạm y tế phục vụ khám chữa bệnh cho nhân dân, Trường mầm non Hoa Đào, Trường tiểu học Chiềng Tương A, Trường tiểu học Chiềng Tương B , Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú THCS.
Đối với công tác phòng, chống dịch Covid-19, xã đã làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh, thường xuyên theo dõi, chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện tốt các văn bản chỉ đạo của Trung ương, tỉnh, huyện. về phòng chống dịch bệnh. thực hiện Nghị quyết 42 của Chính phủ, rà soát, chi trả hỗ trợ người dân gặp khó khăn do dịch Covid-19 với tổng số tiền trên 2.189 tỷ đồng cho 586 hộ, 2.932 nhân khẩu.
tiếp dân, họp các đoàn thể, tiếp xúc cử tri, niêm yết công khai tại UBND xã Chiềng Tương. Các vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của người dân như dự toán thu chi ngân sách xã hàng năm, quyết toán thu chi các quỹ, chính sách và phương án vay vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất,……… được tạo ra một cách công khai để được sự ủng hộ của quần chúng.
3.3 Giải pháp cải thiện và nâng cao dân chủ ở xã Chiềng Tương
Các cấp ủy đảng cần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, nắm chắc tình hình trên địa bàn.
Công khai các thủ tục hành chính, giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của nhân dân, tránh gây phiền hà cho nhân dân. Tổ chức để nhân dân tham gia góp ý, tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của nhân dân.
Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, làm sâu sắc hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy dân chủ trực tiếp, nêu cao vai trò, trách nhiệm của nhân dân và công tác dân vận của cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp.
Nâng cao năng lực chuyên môn, kiện toàn công tác nhân sự, bố trí cán bộ vào các vị trí việc làm hợp lý, đúng chuyên môn, nghiệp vụ.
Phối hợp với Mặt trận các đoàn thể tuyên truyền, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tạo thành hệ thống quy chế dân chủ thống nhất từ Trung ương đến địa phương, giữa các Bộ, ngành. Làm tốt công tác tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, phát huy ưu điểm trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
III. KẾT LUẬN
Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là nhiệm vụ quan trọng, lâu dài của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Mỗi cá nhân, tổ chức phải có trách nhiệm tham gia góp ý, xây dựng phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương nơi mình cư trú, góp phần củng cố an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.