đề cương ôn thi những nguyên lý cơ bản 1


Nội dung khóa học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin tương đối dài, nếu chỉ bám sát sách giáo khoa sẽ khiến việc học của bạn trở nên khó khăn hơn. Chính vì vậy dàn ý này được viết ra nhằm cô đọng lại những phần kiến ​​thức đã học, giúp các bạn biết nên tập trung vào đâu, nên học những gì và không nên học những gì. Nếu bám sát nội dung trong đề cương, các em sẽ thấy môn này dễ thở hơn, điểm thi sẽ ở mức tốt. Học tốt.

I: Hạng mục vật liệu

1. Định nghĩa vật chất của Lênin:

Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được cảm giác đem lại cho con người, được cảm giác sao chép, chụp lại, phản ánh và tồn tại độc lập với cảm giác. .

2. Nội dung, ý nghĩa của định nghĩa vật chất:

Theo Lênin, phạm trù vật chất là phạm trù “cực rộng, rộng nhất mà nhận thức luận chưa vượt qua được” nên không thể định nghĩa vật chất bằng các phương pháp thông thường. thu nhỏ nó thành một đối tượng, một thuộc tính hoặc một danh mục rộng hơn. Vì vậy, Lênin đã sử dụng một phương pháp mới để định nghĩa vật chất bằng cách đối chiếu vật chất với ý thức và định nghĩa nó là “cái khi tác động vào các giác quan của chúng ta thì gây ra cảm giác”.

Thứ nhất, cần phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học với các quan niệm khoa học tự nhiên về cấu trúc và tính chất cụ thể của các dạng vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học dùng để chỉ vật chất nói chung, vô hạn, không cạn, không sinh ra cũng không mất đi.

Trong phần định nghĩa, Lênin chỉ ra rằng khi vật chất đối lập với ý thức trong nhận thức luận thì điều quan trọng nhất để nhận thức nó là thuộc tính khách quan. “Vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác… và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác”.

Như vậy, định nghĩa của Lênin về vật chất bao gồm những nội dung cơ bản sau:

1. Vật chất có trước, ý thức có sau; Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức.

2. Vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác và ý thức; cái gây ra cảm giác ở người khi tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào các giác quan của con người.

3. Cảm giác, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất. Ý thức con người là sự phản ánh hiện thực khách quan, tức là con người có khả năng nhận thức thế giới.

Ý nghĩa: – Định nghĩa của Lênin về vật chất đã bao quát cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm duy vật biện chứng, thừa nhận về mặt nhận thức luận rằng vật chất là bản chất đầu tiên, con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa về vật chất của Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, khắc phục tính chất siêu hình, trực quan trong các quan niệm về vật chất.

– Định nghĩa về chủ nghĩa duy vật của Lênin cũng phản bác các quan điểm duy tâm về vật chất, tạo cơ sở lý luận để khắc phục quan điểm duy tâm về đời sống xã hội.

– Định nghĩa của Lênin về vật chất còn có vai trò định hướng cho sự phát triển của nhận thức khoa học.

II: Phạm trù ý thức.

1. Khái niệm ý thức:

Ý thức, theo định nghĩa của triết học Mác – Lênin, là một phạm trù song song với phạm trù vật chất, theo đó, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ não con người và trải qua quá trình chuyển hóa, sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.

2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:

– Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:

Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức, là nguồn gốc của ý thức. Bộ não người là một dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.

ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào bộ não con người, là hình ảnh của thế giới khách quan. Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức quyết định nội dung của ý thức.

– ý thức độc lập tương đối tác động lên vật chất.

Ý thức có tính độc lập tương đối với vật chất, có tính năng động sáng tạo nên có thể tác động trở lại vật chất và góp phần cải tạo thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

ý thức phản ánh chính xác hiện thực khách quan, có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất.

Ý thức không phản ánh hiện thực khách quan ở một mức độ nhất định có thể kìm hãm hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội.

– Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người.

Con người dựa trên những hiểu biết của mình về thế giới khách quan, hiểu biết các quy luật khách quan từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí thực hiện mục tiêu đó.

Vai trò chủ động, sáng tạo của ý thức con người trong quá trình cải tạo thế giới hiện thực được phát triển đến mức vẫn phải dựa trên sự phản ánh thế giới khách quan và những điều kiện khách quan.

3. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ mối quan hệ vật chất – ý thức:

Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất của các quy luật tự nhiên và xã hội-> trong hoạt động thực tiễn, con người phải xuất phát từ hiện thực khách quan, lấy khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình. .

Phát huy tính năng động chủ quan, phát huy vai trò ý thức nhân tố con người trong việc phản ánh đúng đắn thế giới khách quan. Nhận thức được quy luật, xác định được mục tiêu, đề ra phương hướng hoạt động đạt hiệu quả cao nhất.

III: Học thuyết nhận thức duy vật biện chứng

1. Khái niệm thực tiễn, khái niệm nhận thức:

Khái niệm thực tế:

Thực tiễn là tổng thể những hoạt động vật chất có mục đích lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo thế giới khách quan.

Thực hành là hoạt động thể chất. Mọi hoạt động nằm ngoài hoạt động tinh thần của con người đều là hoạt động thực tiễn.

Đó là một hoạt động có mục đích. Khác với hoạt động bản năng của động vật.

Lịch sử – xã hội: Hoạt động của con người trong xã hội và trong những giai đoạn lịch sử nhất định.

Hoạt động thực tiễn rất đa dạng, về cơ bản có 3 dạng:

+ Hoạt động sản xuất vật chất

+ Hoạt động chính trị xã hội.

+ Hoạt động thực nghiệm khoa học (Nhằm tạo môi trường giống hoặc gần gũi với môi trường sống bên ngoài: hoạt động này ngày càng có vai trò quan trọng).

Trong ba hoạt động trên, hoạt động sản xuất vật chất giữ vai trò quan trọng nhất, là cơ sở cho các hoạt động khác của con người và cho sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người.

Khái niệm nhận thức:

Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não con người trên cơ sở thực tiễn để tạo ra tri thức về thế giới khách quan. Đó là quan điểm duy vật biện chứng về nhận thức.

2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

Thực tiễn và nhận thức không ngừng phát triển trong mối quan hệ tác động qua lại, trong đó thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, nguồn gốc, động cơ, mục đích của nhận thức và là cơ sở của chân lý.

# Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc, động lực của nhận thức

– Loài người muốn tồn tại thì phải lao động để tạo ra sản phẩm cho con người, muốn lao động thì con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh. Vậy, hoạt động thực tiễn tạo ra động lực đầu tiên để con người nhận thức thế giới.

Trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng các công cụ, phương tiện để tác động vào thế giới, làm cho thế giới bộc lộ đặc điểm, thuộc tính, cấu tạo, quy luật vận động; con người nắm bắt những thuộc tính, đặc điểm đó, dần dần hình thành tri thức về thế giới.

Trong hoạt động thực tiễn, con người dần hoàn thiện mình, các giác quan của con người ngày càng phát triển. do đó, làm tăng nhận thức của con người về thế giới.

Trong bản thân ý thức có động cơ trí tuệ. Nhưng suy cho cùng, động lực cơ bản của nhận thức là thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn, con người đã gặp rất nhiều trở ngại, khó khăn và thất bại. Điều đó buộc con người phải trả lời những câu hỏi do thực tiễn đặt ra. Ăng-ghen cho rằng: Chính thực tiễn đã “ra lệnh” cho các nhà khoa học giải quyết những bế tắc của thực tiễn (ngày càng có nhiều ngành khoa học mới ra đời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn như khoa học vật liệu mới, khoa học đại dương, khoa học vũ trụ…)

– Trong hoạt động thực tiễn, con người sáng tạo ra những công cụ, phương tiện có tác dụng mở rộng các giác quan, từ đó làm tăng khả năng nhận thức của con người về thế giới.

# Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Mục đích của mọi nhận thức không phải vì bản thân nhận thức mà là để thực hành cải biến giới tự nhiên, cải biến xã hội vì nhu cầu của con người. Bất kỳ lý thuyết khoa học nào chỉ có ý nghĩa khi nó được áp dụng vào thực tế.

# Thực hành là tiêu chí của chân lý: Làm sao biết nhận thức của con người là đúng hay sai? Tiêu chí để đánh giá cuối cùng không phải ở lý thuyết, ở nhận thức mà ở thực tiễn. Khi nhận thức được xác nhận là đúng thì nhận thức đó trở thành chân lý.

Tuy nhiên, cũng có trường hợp không phải thông qua phép thử mới biết được một nhận thức là đúng hay sai mà có thể thông qua các quy luật logic vẫn biết được nhận thức đó là gì. Nhưng cuối cùng, những nguyên tắc đó cũng đã được chứng minh trong thực tế.

3. Ý nghĩa phương pháp luận:

– Trong quá trình nhận thức phải luôn thấy rõ vai trò của hoạt động thực tiễn, không xa rời thực tiễn.

– Trong hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học phải kết hợp với hoạt động thực tiễn sản xuất theo phương châm học đi đôi với hành => học có kết quả.

IV: Quy luật về sự phù hợp của cơ sở hạ tầng và kiến ​​trúc thượng tầng.

1. Khái niệm hạ tầng và công nghệ thông tin:

Một. Cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng là tổng thể những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.

Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quyết định xu hướng chung của đời sống kinh tế – xã hội. Như vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi những quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định.

Như vậy, trong phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất là một hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng trong tổng thể các quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất “cấu thành” cơ sở kinh tế. kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên đó kiến ​​trúc thượng tầng tương ứng được hình thành

Tham Khảo Thêm:  kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học cá nhân

b. kiến trúc thượng tầng: Kiến trúc thượng tầng là tổng thể các quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v… cùng với các thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, nhà thờ, các nhóm xã hội, v.v., được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.

Mỗi yếu tố của kiến ​​trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng nhưng chúng có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau và được hình thành trên cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, các yếu tố khác nhau có mối quan hệ khác nhau với cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố như chính trị và pháp luật có mối quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng; các yếu tố như triết học, tôn giáo và nghệ thuật chỉ liên quan gián tiếp đến nó.

Trong một xã hội có giai cấp, kiến ​​trúc thượng tầng là dựa trên giai cấp. Đó là cuộc đấu tranh chính trị – tư tưởng của các giai cấp đối lập nhau, trong đó, nổi bật là sự thống trị về chính trị – tư tưởng của giai cấp thống trị.

Trong kiến ​​trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nó đại diện cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định. Nhờ có nhà nước mà giai cấp thống trị mới thực hiện được quyền thống trị của mình đối với mọi mặt của đời sống xã hội.

2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến ​​trúc thượng tầng

a) Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến ​​trúc thượng tầng

Cơ sở hạ tầng và kiến ​​trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định đối với kiến ​​trúc thượng tầng.

– Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành một kiến ​​trúc thượng tầng tương ứng. Tính chất của kiến ​​trúc thượng tầng do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị về kinh tế cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống chính trị, tinh thần của xã hội. Những mâu thuẫn trong kinh tế xét đến cùng quyết định những mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; Đấu tranh giai cấp về chính trị, tư tưởng là biểu hiện của những đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến ​​trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo,… đều phụ thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.

Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến ​​trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. C. Mác viết: “Khi cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến ​​trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”(1).

Quá trình đó không chỉ diễn ra trong thời kỳ chuyển từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác mà còn diễn ra trong bản thân mỗi hình thái kinh tế – xã hội.

Mặc dù sự biến đổi của kiến ​​trúc thượng tầng cũng gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng lực lượng sản xuất không trực tiếp làm thay đổi kiến ​​trúc thượng tầng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ làm thay đổi trực tiếp quan hệ sản xuất, tức là trực tiếp làm thay đổi cơ sở hạ tầng và từ đó làm thay đổi kiến ​​trúc thượng tầng.
Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự thay đổi rất phức tạp của kiến ​​trúc thượng tầng. Trong đó có những yếu tố của kiến ​​trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật… Trong kiến ​​trúc thượng tầng có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật… hoặc có những yếu tố vẫn kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.

b. Sự trở lại của kiến ​​trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Tất cả các yếu tố cấu thành kiến ​​trúc thượng tầng đều có tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi nhân tố khác nhau lại có một vai trò khác nhau, có cách hành động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là nhân tố tác động mạnh nhất đến CSHT vì nó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến ​​trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật… cũng tác động đến cơ sở hạ tầng nhưng đều chịu sự điều chỉnh của nhà nước và pháp luật.

Trong mỗi chế độ xã hội, không phải lúc nào sự tác động của các bộ phận của kiến ​​trúc thượng tầng cũng theo một xu hướng. Chức năng xã hội cơ bản của kiến ​​trúc thượng tầng thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc tiêu diệt chế độ kinh tế đó. Một giai cấp chỉ có thể duy trì sự thống trị về kinh tế của mình khi nó thiết lập và củng cố sự thống trị về chính trị và tư tưởng của mình.

Sự tác động trở lại của kiến ​​trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai hướng. Nếu kiến ​​trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan, là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại thì sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế, kìm hãm sự phát triển xã hội.

Kiến trúc thượng tầng tuy tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế nhưng không làm thay đổi quá trình phát triển khách quan của xã hội. Xét cho cùng, nhân tố kinh tế giữ vai trò quyết định đối với kiến ​​trúc thượng tầng. Nếu kiến ​​trúc thượng tầng kìm hãm sự phát triển kinh tế thì sớm muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến ​​trúc thượng tầng cũ sẽ bị thay thế bằng kiến ​​trúc thượng tầng mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.

3. Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới:

V. Cặp phạm trù: cái chung và cái riêng:

1. Khái niệm

-Cái riêng là” Phạm trù triết học dùng để chỉ một sự kiện, hiện tượng, quá trình riêng lẻ nào đó.

-Điểm chung là “ thể loại triết học dùng để chỉ những thuộc tính, mối liên hệ… chung của nhiều sự vật, hiện tượng.

-Người duy nhất là ” Phạm trù triết học chỉ những thuộc tính, tính chất… chỉ tồn tại ở một sự vật, hiện tượng này mà không lặp lại ở những sự vật, hiện tượng khác.

2. Thuộc tính:

3. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:

– Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung, cái riêng nào cũng bao hàm cái chung.

Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, qua đó cái riêng thể hiện sự tồn tại của mình.

– Cái chung là một bộ phận của cái riêng, cái riêng không hoàn toàn ăn nhập với cái chung.

– Sự chuyển hoá từ đơn thể có thể chuyển hoá lẫn nhau trong những điều kiện nhất định

– Sự chuyển hóa từ cái riêng sang cái chung là biểu hiện cái mới ra đời thay thế cái cũ

– Sự biến cái chung thành cái riêng là biểu hiện của cái cũ, cái cũ bị phủ định.

4. Ý nghĩa phương pháp luận:

Trong nhận thức và hành động thực tiễn không có sự vươn lên tuyệt đối của cái chung và cái riêng

– Nếu tuyệt đối hóa cái chung, coi nhẹ cái riêng sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, rập khuôn, máy móc.

– Tuyệt đối hóa cái riêng, coi thường cái chung sẽ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, cục bộ, dân tộc hẹp hòi.

– Nhiệm vụ nhận thức cái chung phải xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ.

Trong hoạt động thực tiễn, thấy sự chuyển hóa nào có lợi cho mình, chúng ta cần tích cực hành động để chuyển hóa đó nhanh chóng thành hiện thực.

BỞI VÌ. Các mặt hàng

1. Khái niệm hàng hóa

Hàng hóa là sản phẩm của lao động nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định của con người thông qua trao đổi, mua bán.

– Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình như sắt thép, lương thực, thực phẩm… hoặc ở dạng vô hình như dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ giáo viên, bác sĩ, nghệ sĩ…

2. Hai thuộc tính của hàng hóa

Một. Giá trị sử dụng của hàng hóa

Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.

Bất kỳ hàng hóa nào cũng có một hoặc một số công dụng. Chính công dụng đó (sự hữu ích đó) làm cho hàng hóa có giá trị. Ví dụ, công dụng của gạo là để ăn, vậy giá trị sử dụng của gạo là để ăn… Cơ sở của —

Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên (lý, hóa) của nó quy định, nên giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hoặc mọi hình thức tổ chức. tổ chức sản xuất. Giá trị sử dụng của hàng hóa dần dần được phát hiện trong quá trình phát triển của khoa học – công nghệ và của lực lượng sản xuất nói chung.

Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội vì giá trị sử dụng của hàng hóa không phải là giá trị sử dụng cho người trực tiếp sản xuất mà là cho những người khác, cho xã hội thông qua trao đổi, mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn quan tâm đến nhu cầu của xã hội, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu của xã hội.

Giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi. Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ trao đổi giữa các hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau.

b. Giá trị hàng hóa

Để hiểu được giá trị của một hàng hóa, người ta phải đi từ giá trị trao đổi. Mác viết: “Giá trị trao đổi trước hết biểu hiện như một quan hệ về lượng, là một tỷ lệ mà theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác”.

Ví dụ: 1 mét vải = 10kg gạo

Sở dĩ hai hàng hóa khác nhau là vải và thóc lúa lại có thể trao đổi được với nhau là vì giữa những hàng hóa khác nhau đó có một cái chung, cái chung đó không phải là vải, là gạo… mà là một thứ gì đó. mà giảm được cả vải lẫn gạo. Mac viết: “Đặc điểm chủ yếu của quan hệ trao đổi hàng hoá là sự tạm gác giá trị sử dụng của hàng hoá”.

Nếu nó không phải là giá trị sử dụng thì nó chỉ là tài sản chung của những người lao động khác nhau, là sự hao phí sức lao động của con người.

Vì vậy, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của con người kết tinh trong hàng hóa, còn giá trị trao đổi chỉ là biểu hiện giá trị của hàng hóa.

Đến đây ta nhận thấy thuộc tính tự nhiên của hàng hóa là giá trị sử dụng, thuộc tính xã hội của hàng hóa là hao phí lao động kết tinh trong nó và là giá trị. Bất cứ thứ gì muốn trở thành hàng hóa. Mọi hàng hóa đều phải có đủ hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị, nếu thiếu một trong các thuộc tính đó thì sản phẩm đó không thể là hàng hóa.

3. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa

Hai thuộc tính của hàng hóa có quan hệ mật thiết với nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.

Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: hai thuộc tính này cùng tồn tại trong một hàng hóa, một vật phải có đầy đủ hai thuộc tính này thì mới là hàng hóa. Nếu thiếu một trong hai thuộc tính thì vật phẩm đó không phải là hàng hóa.

Ví dụ, một vật có ích (tức là có giá trị sử dụng) nhưng không do lao động sản xuất ra (tức là không kết tinh lao động) như không khí tự nhiên thì không phải là hàng hóa.

Tham Khảo Thêm:  giáo án âm nhạc nhà trẻ 24-36 tháng

Sự mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hóa được thể hiện ở các nội dung sau:

Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng, hàng hóa không đồng nhất về chất. Ngược lại, với tư cách là giá trị, hàng hóa đồng nhất về chất. Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị, hàng hóa đồng nhất về chất, đều là “sự kết tinh thống nhất của riêng lao động”, tức là sự kết tinh của lao động, hay sức lao động. đã được hiện thực hóa.

Thứ hai, mặc dù giá trị sử dụng và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hóa, nhưng quá trình thực hiện chúng lại tách biệt về không gian và thời gian: giá trị thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị sử dụng thực hiện sau trong lĩnh vực tiêu dùng. . Vì vậy, nếu giá trị của hàng hóa không được thực hiện sẽ dẫn đến khủng hoảng sản xuất.

(Theo SGK: Giữa hai thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ ràng buộc với nhau. Trong đó, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau, người sản xuất mặc nhiên so sánh sức lao động ẩn chứa trong hàng hóa với nhau.

Thực chất của quan hệ trao đổi là con người trao đổi sức lao động đã hao phí của mình chứa đựng trong hàng hóa. Vì vậy, giá trị là biểu hiện của mối quan hệ giữa những người sản xuất ra hàng hóa. Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với sản xuất hàng hóa. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng đây lại là sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ: Người làm ra hàng hoá chỉ quan tâm đến giá trị hàng hoá của mình, nếu họ quan tâm đến giá trị sử dụng thì họ cũng quan tâm đến giá trị hàng hoá của mình. là để có được giá trị. Ngược lại, người mua hàng hóa chỉ quan tâm đến giá trị sử dụng của hàng hóa, còn muốn tiêu dùng giá trị sử dụng đó thì người mua phải thanh toán giá trị của nó cho người bán. việc thực hiện giá trị khác với việc thực hiện giá trị sử dụng: giá trị được thực hiện trước, sau đó mới thực hiện giá trị sử dụng.)

4. Lượng giá trị hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hoá.

# Lượng giá trị hàng hóa

Giá trị của một hàng hóa là do lao động trừu tượng, có tính xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó. Như vậy, lượng giá trị của một hàng hóa được đo bằng lượng lao động đã tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó. Lượng lao động tiêu hao được tính bằng thời gian lao động.

Lượng giá trị của một hàng hóa không phải do hao phí lao động cụ thể hay thời gian lao động cụ thể mà được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.

Thời gian lao động cần thiết xã hội là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một loại hàng hóa nhất định trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo nhất định. trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.

Chỉ có lượng lao động cần thiết về mặt xã hội, hoặc thời gian lao động cần thiết về mặt xã hội để sản xuất ra một hàng hóa, mới quyết định lượng giá trị của hàng hóa đó.

# Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa

Tất cả những nhân tố ảnh hưởng đến thời gian lao động xã hội cần thiết đều ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa. Ta xét ba yếu tố cơ bản: năng suất lao động, cường độ lao động và mức độ lao động đơn giản hay phức tạp.

Năng suất lao động là sức sản xuất của lao động. Nó được đo bằng lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian hay lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.

Năng suất lao động tăng có nghĩa là trong cùng một thời gian lao động nhưng số lượng hàng hoá sản xuất ra tăng lên thì thời gian lao động để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá tăng lên. Vì vậy, khi năng suất lao động tăng lên thì lượng giá trị một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại. Như vậy, giá trị hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.

Cường độ lao động là thước đo mức độ hao phí lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy sự khẩn trương, nặng nề hay căng thẳng của quá trình chuyển dạ.

Cường độ lao động tăng tức là mức tiêu hao năng lượng cơ bắp và thần kinh trong một đơn vị thời gian tăng lên, tính khẩn trương, gian khổ hay căng thẳng của lao động cũng tăng lên. Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) sản phẩm sản xuất ra tăng lên và hao phí lao động cũng tăng theo, do đó giá trị của một đơn vị hàng hóa không đổi. Tăng cường độ lao động thực tế cũng như kéo dài thời gian lao động nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.

– Trình độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng hoá. Theo mức độ phức tạp của lao động, có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.

Lao động giản đơn là lao động do người lao động bình thường không cần qua đào tạo có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể tiến hành được.

-Đồng thời lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân lên.

VII. Quy luật giá trị

1. Nội dung (yêu cầu) của quy luật giá trị:

Việc sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, nghĩa là dựa trên sự tiêu hao lao động xã hội cần thiết.

Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm cho hao phí lao động cá nhân của mình phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết để có thể tồn tại. ; còn trong trao đổi, hay lưu thông thì phải tuân theo nguyên tắc ngang giá: Hai hàng hóa được trao đổi khi kết tinh một lượng lao động như nhau hoặc việc trao đổi, mua bán hàng hóa phải được thực hiện ngang giá. giá trị như nhau.

Cơ chế hoạt động của quy luật giá trị thể hiện cả trong trường hợp giá cả bằng giá trị và cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá trị. Ở đây, giá trị là trục của giá cả.

2. Sự tác động của quy luật giá trị

Trong sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động:

– Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Quy luật giá trị điều tiết nền sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp sau:

Thứ nhất, nếu một hàng hóa nào đó có giá cả cao hơn giá trị của nó, hàng hóa đó bán chạy, thu được lợi nhuận cao thì người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. . Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác cũng có thể chuyển sang sản xuất hàng hóa này, do đó tư liệu sản xuất và sức lao động trong ngành này tăng lên, quy mô sản xuất được mở rộng.

+ Thứ hai, nếu một mặt hàng có giá thấp hơn giá trị của nó, sẽ bị lỗ vốn. Tình trạng này buộc người sản xuất phải giảm sản xuất một mặt hàng này hoặc chuyển sang sản xuất một mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm xuống, trong khi ở ngành khác lại có thể tăng lên.

Nếu giá của một mặt hàng bằng với giá trị của nó, nhà sản xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng đó.

Như vậy, quy luật giá trị tự động điều chỉnh tốc độ phân công tư liệu sản xuất và sức lao động thành các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Tác động điều tiết của quy luật giá trị đối với lưu thông hàng hoá là nó thu hút hàng hoá từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn, góp phần thúc đẩy sự lưu chuyển hàng hoá giữa các vùng. có sự cân bằng nhất định.

– Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.

Hàng hóa được sản xuất trong những điều kiện khác nhau và do đó có chi phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường, tất cả hàng hóa phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. bộ.

– Phân hóa giàu nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa.

Những người sản xuất hàng hóa có chi phí lao động cá biệt thấp hơn mức cần thiết về mặt xã hội, khi bán hàng hóa với chi phí lao động (về giá trị) cần thiết về mặt xã hội, sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. có lãi, giàu lên, mua được nhiều tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê công nhân làm ông chủ.

Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa có hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết thì khi bán được hàng hóa sẽ lâm vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí phá sản. tài sản, trở thành lao động làm thuê.

Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.

Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực. Vì vậy, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những biện pháp phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó, nhất là trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa. nhiều yếu tố định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

VIII. Hàng hóa sức lao động

1. Khái niệm sức lao động

Sức lao động là toàn bộ năng lực thể chất và trí tuệ của con người, là khả năng lao động của con người, được con người sử dụng để tạo ra của cải. Nó là yếu tố cơ bản nhất của mọi quá trình sản xuất.

2. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:

+ Người lao động phải được tự do về thể chất và có quyền kiểm soát sức lao động của mình để có thể bán khi cần

+ Khi người lao động không có tư liệu sản xuất hoặc tài sản không đủ lớn nên phải bán sức lao động để sinh sống.

3. Hai thuộc tính của sức lao động hàng hóa

# Giá trị hàng hóa sức lao động

Đó là sự hao phí lao động cần thiết về mặt xã hội để sản xuất và tái sản xuất sức lao động

Giá cả sức lao động là biểu hiện bằng tiền của hàng hoá sức lao động

– Lương có 2 hình thức, trả theo thời gian và trả theo sản phẩm

Giá trị của hàng hóa và sức lao động phụ thuộc vào khí hậu, điều kiện tự nhiên, tập quán tiêu dùng và trình độ văn minh.

# Giá trị sử dụng sức lao động

– Là tiện ích hữu ích có khả năng thỏa mãn nhu cầu của người mua. Người mua sức lao động là nhà tư bản, nhu cầu của người đầu tư là tạo ra giá trị thặng dư, vì vậy giá trị sử dụng là việc sử dụng sức lao động của hàng hóa phải là giá trị sử dụng đặc biệt: tạo ra giá trị lớn hơn giá trị của chính nó.

Tham Khảo Thêm:  một số bạn đang đua đòi theo lối ăn mặc không lành mạnh

– Nhờ giá trị sử dụng đặc biệt của sức lao động mà sức lao động hàng hóa là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn về công thức chung của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, nó trở thành vốn khi nó được sử dụng để mua hàng hóa. lao động để thu được giá trị thặng dư

Kết luận: sức lao động hàng hoá là nhân tố, là nguồn gốc của giá trị thặng dư và nó là nguồn gốc để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của chủ nghĩa tư bản.

4. So sánh hàng hóa sức lao động với hàng hóa thông thường

* Giống nhau: đều là hàng hóa và cũng có hai thuộc tính GT và GTSD.

* Khác biệt:

– Hàng thương mại Hàng thông thường

– Người mua có quyền sd, không có quyền sở hữu, người bán phải vâng lời người mua

– Người mua và người bán hoàn toàn độc lập với nhau

– Mua bán có kỳ hạn Mua hẳn, bán đứt

– Giá thấp hơn giá trị Giá có thể tương đương GT

– Giá trị: cả yếu tố tinh thần, vật chất và lịch sử Chỉ là yếu tố vật chất thuần túy

– GTSD đặc biệt: tạo ra giá trị mới lớn hơn GT của chính nó, đó là GTTD GTSD bình thường

– Là nguồn gốc tạo ra giá trị của cải Biểu hiện của cải

IX. Tiền thuê đất vốn

1. Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa

Các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải thuê ruộng đất của địa chủ và thuê nhân công để tiến hành sản xuất. Vì vậy, nhà tư bản phải trích một phần giá trị thặng dư do công nhân tạo ra để trả cho địa chủ dưới hình thức địa tô. Như vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa là một bộ phận lợi nhuận dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân của tư bản đầu tư vào nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ. với tư cách là chủ đất.

2. Các hình thức địa tô cơ bản của tư bản chủ nghĩa

Một. Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân thu được trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung do điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định với giá cả sản xuất cá biệt bình quân và trường tốt (ký hiệu Rcl).

Có hai loại tiền thuê chênh lệch: tiền thuê chênh lệch I và tiền thuê chênh lệch II. Địa tô chênh lệch I là loại địa tô thu được trên ruộng đất có điều kiện tự nhiên thuận lợi. Ví dụ, có độ phì nhiêu tự nhiên thuận lợi (trung bình và tốt) và có vị trí gần nơi tiêu thụ hoặc gần đường giao thông. Địa tô chênh lệch II là loại địa tô thu được do canh tác sản xuất, là kết quả của việc đầu tư thêm tư bản trên một đơn vị diện tích.

b. Địa tô tuyệt đối là loại địa tô mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp nhất định phải nộp cho địa chủ, bất kể ruộng đất tốt hay xấu, xa hay gần. Địa tô tuyệt đối là phần lợi nhuận thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, được hình thành do chênh lệch giữa giá trị sản phẩm nông nghiệp với giá cả sản xuất chung của sản phẩm nông nghiệp.

Ví dụ: Có hai thủ đô là nông nghiệp và công nghiệp đều là 100, cơ cấu hữu cơ trong nông nghiệp là 3/2, cơ cấu hữu cơ trong công nghiệp là 4/1. Giả sử m’=100% thì giá trị sản phẩm và rổ hàng thặng dư sản xuất ra trong mỗi ngành sẽ là, trong ngành 80c + 20v + 20m = 120; trong nông nghiệp 60c + 40v + 40m = 140. Giá trị thặng dư trong nông nghiệp so với trong công nghiệp là 20. Sự chênh lệch này không được tính bình quân mà chuyển thành địa tô tuyệt đối.

Cơ sở của địa tô tuyệt đối là cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp. Còn sở dĩ tồn tại địa tô tuyệt đối là do độc quyền sở hữu ruộng đất ngăn cản nông nghiệp tham gia cạnh tranh giữa các ngành để hình thành lợi nhuận bình quân.

c. Địa tô độc quyền là một hình thức đặc biệt của địa tô tư bản chủ nghĩa; nó có thể tồn tại trong nông nghiệp, công nghiệp khai thác mỏ và ở các vùng đất đô thị.

Trong nông nghiệp, địa tô độc quyền có ở những vùng có tính chất đặc biệt cho phép trồng các loại cây đặc sản hoặc sản xuất các sản phẩm đặc biệt. Trong ngành khai thác mỏ, tiền thuê độc quyền có sẵn trong việc khai thác kim loại quý, khoáng chất hoặc khoáng sản có nhu cầu vượt xa khả năng khai thác của họ. Tại khu vực đô thị, các khu đất có vị trí đắc địa cho phép xây dựng khu công nghiệp, thương mại, dịch vụ, nhà ở cho thuê có khả năng sinh lời cao được dành riêng cho các khu đất có giá cho thuê.

Nguồn gốc của địa tô độc quyền cũng chính là phần lợi nhuận dôi ra do giá cả độc quyền của sản phẩm thu được trên ruộng đất đó mà nhà tư bản phải nộp cho địa chủ.

3. ý nghĩa học thuyết địa tô của Mác:

Học thuyết địa tô của C.Mác không chỉ vạch ra quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp mà còn là cơ sở lý luận để nhà nước xây dựng chính sách thuế đối với nông nghiệp và các ngành khác. liên quan đến đất đai, nhằm sử dụng đất hiệu quả hơn.

X. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:

1. Tính tất yếu của quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Một là chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội về cơ bản là khác nhau. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên cơ sở sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và nền sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên áp bức và bóc lột. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở sở hữu công cộng về vốn xã hội là chủ yếu, tồn tại dưới hai hình thức là nhà nước và tập thể, không còn tình trạng đối kháng giai cấp, áp bức, bóc lột.

Thứ hai, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở sản xuất công nghiệp ở trình độ cao.

Thứ ba, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát sinh trong lòng chủ nghĩa tư bản, mà là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo chủ nghĩa xã hội.

Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc mới, khó khăn, phức tạp, giai cấp công nhân cần phải có thời gian làm quen.

2. Đặc điểm và bản chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội

Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những yếu tố mới của chủ nghĩa tư bản trong mối quan hệ thống nhất và đấu tranh. cạnh tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội

Về lĩnh vực kinh tế: trong thời kỳ quá độ, tất yếu nhiều thành phần kinh tế trong hệ thống kinh tế quốc dân sẽ hợp nhất lại và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế vừa tồn tại vừa thâm nhập lẫn nhau, đoàn kết, hợp tác, mâu thuẫn, đấu tranh với nhau. Ở Việt Nam có 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân. kinh tế tư nhân (kinh tế chủ thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Về lĩnh vực chính trị: Trong xã hội, cơ cấu giai cấp xã hội trong thời kỳ quá độ cũng rất đa dạng và phức tạp, bao gồm: giai cấp tư sản, giai cấp nông dân, tầng lớp tri thức, người sản xuất nhỏ. , giai cấp tư sản. Các giai cấp, tầng lớp này vừa đoàn kết, vừa đấu tranh với nhau. Vì vậy, sự tồn tại của nhà nước trong thời kỳ quá độ là tất yếu.

Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có nhiều yếu tố văn hóa tư tưởng khác nhau, bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn có tư tưởng tiểu tư sản. Tâm lý tiểu nông…

Trong lĩnh vực văn hóa cũng tồn tại những yếu tố cũ và mới, thường xuyên mâu thuẫn với nhau.

3. Nội dung quá độ lên chủ nghĩa xã hội

– Về lĩnh vực kinh tế: sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ tốt hơn đời sống nhân dân lao động.

Việc sắp xếp, bố trí lại lực lượng sản xuất của một xã hội nhất định không thể vội vàng, chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu khách quan của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ. sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa thì nhất thiết phải tiến hành chủ nghĩa xã hội để tạo ra cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ trọng tâm của các nước này trong kinh tế quân sự là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình công nghiệp hóa và xây dựng chủ nghĩa xã hội diễn ra ở các quốc gia khác nhau với những điều kiện lịch sử khác nhau, có thể được tiến hành với những nội dung cụ thể và hình thức, bước đi khác nhau. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa nên thời gian qua Đảng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo nền tảng để đi lên chủ nghĩa xã hội; Bên cạnh đó, chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhằm giải phóng sức sản xuất, hướng tới nền sản xuất lớn.

– Trên lĩnh vực chính trị: tiến hành đấu tranh chống các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa; xây dựng củng cố nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ trong các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động, xây dựng các tổ chức chính trị – xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ của từng thời kỳ lịch sử.

– Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: tuyên truyền, phổ biến những tư tưởng khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc phục những tư tưởng, tâm lý ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu những giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới.

– Về lĩnh vực xã hội: khắc phục các tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng: tự do của người này là điều kiện, tiền đề cho tự do của người khác.

Tóm lại, kinh tế quân đội lên chủ nghĩa xã hội là một giai đoạn lịch sử tất yếu trên con đường phát triển của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là một thời kỳ lịch sử có những đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cụ thể mà giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển của hình thái kinh tế – xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ có thể đạt được trên cơ sở hoàn thiện những nội dung đó.

Related Posts

sáng kiến kinh nghiệm đổi mới kiểm tra đánh giá

Ngày 21/7, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) có Công văn số 3175/BGDĐT-GDTrH gửi các Sở GDĐT về việc hướng dẫn đổi mới phương pháp dạy…

liên hệ bản thân về lý luận và thực tiễn

Như vậy, sự yếu kém về lý luận là nguyên nhân trực tiếp và rất quan trọng của bệnh kinh nghiệm. Tuy nhiên, sự yếu kém về…

đồ án kỹ thuật thi công 1 ván khuôn gỗ

Mục lục Chương 1: Giới thiệu dự án Đặc điểm kiến ​​trúc và kết cấu Đặc điểm địa chất thủy văn, đường giao thông đến dự án…

bài thu hoạch tham quan bảo tàng hồ chí minh

1 23,831 417 … Người khổng lồ, sưu tầm c Tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn. Họ và tên Số: Lớp BÀI GIẢNG SƯU TẦM KẾ HOẠCH…

kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên giáo viên tiểu học

Kế hoạch giáo dục thường xuyên cá nhân là mẫu kế hoạch hàng năm, được lập vào đầu mỗi năm học. Bước sang năm học mới, Hoatieu.vn…

kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học cá nhân

Phương pháp dạy học tích cực đang được áp dụng rộng rãi tại nhiều trường học ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Phương pháp…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *