Đề thi học sinh giỏi môn Văn 11 trường THPT Lê Viết Thuật
PHIẾU KIỂM TRA
Năm học 2008-2009
Đề thi: NGUYỄN VĂN 11
Thời gian làm bài: 150 phút
Câu 1: (6 điểm)
Bàn về bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu, có ý kiến cho rằng: “Bài thơ chỉ là sự cổ vũ cho lối sống vội vàng, tiêu cực, ích kỷ, hưởng lạc”.
Anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến trên (Bài viết không quá 1 trang giấy).
Câu 2: (7 điểm)
Hình ảnh đám tang trong đoạn trích “Hạnh phúc của một nhà tang lễ” của Vũ Trọng Phụng.
Câu 3: (7 điểm)
Đánh giá về bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận, có ý kiến cho rằng: “Tràng Giang” tiếp nối vòng thơ truyền thống với sự cách tân thực sự.
Hãy giải thích sự “đổi mới thực sự” của Huy Cận trong bài thơ này.
HƯỚNG DẪN GIAO DỊCH THỬ NGHIỆM
PHIẾU KIỂM TRA
Năm học 2008-2009
ngữ văn 11
(Đáp án và phiếu biểu điểm gồm 03 trang)
I. Yêu cầu chung.
-
Có kĩ năng làm văn nghị luận tốt: bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, diễn đạt trong sáng, giàu hình ảnh và sức biểu cảm, mắc ít lỗi chính tả, ngữ pháp. Thí sinh có thể lựa chọn nhiều cách trình bày, nhiều phương pháp: giải thích, phân tích, nghị luận, phát biểu cảm nghĩ…
-
Hướng dẫn chấm điểm chỉ nêu nội dung cơ bản, định hướng, định tính chứ không định lượng. Giám khảo phải hết sức linh hoạt khi sử dụng hướng dẫn cho điểm. Đánh giá cẩn thận và tỉ mỉ toàn bộ công việc của ứng viên; Đánh giá cao những bài viết có quan điểm và tiếng nói riêng. Có thể chấp nhận nhiều cách giải thích khác nhau, ngay cả những cách giải thích không có trong hướng dẫn chấm điểm, miễn là chúng hợp lý và thuyết phục.
-
Tổng điểm toàn bài: 20,0, trừ đến 0,5. Hướng dẫn đánh giá chỉ liệt kê một vài thang đo chính; Trên cơ sở đó, giám khảo có thể thảo luận và thống nhất thang điểm chi tiết.
II. Yêu cầu cụ thể:
Câu 1: (6 điểm)
a) Yêu cầu về kỹ năng:
Biết cách làm một bài văn nghị luận dùng phép bác bỏ để bác bỏ một ý kiến sai trái về bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
b) Yêu cầu về kiến thức:
1. Thế nào là lối sống bức bách, tiêu cực, ích kỷ, hưởng lạc?
– Đó là lối sống vội vã, hối hả, chạy đua với thời gian để tận hưởng những thú vui vật chất của cuộc sống vì lợi ích của những cá nhân thấp hèn…
2. Bài thơ Vội vàng có phải là biểu hiện của lối sống vội vàng, tiêu cực, ích kỷ, hưởng lạc không?
– Xuân Diệu cũng đã từng khuyên con người tìm đến những thú vui tầm thường: “ Say rượu cho quên đèn”, để con người chìm đắm trong đam mê xác thịt, đưa con người đến tận cùng bến mê, cõi thoáng, để quên đi. mọi thứ? Nhưng không, đây không phải là toàn bộ sự nghiệp thơ của Xuân Diệu! Thơ Xuân Diệu không như thế!
– Xuân Diệu qua bài thơ vội vàng bày tỏ khát khao hưởng thụ hết hương vị tuyệt vời của cuộc sống trên trần gian, nên ông đã níu kéo thời gian, quyền uy của tạo hóa tăng thêm, muốn tắt nắng, buộc gió… “Ta muốn biến tắt nó đi.” nắng…bay đi…”
– Nhà thơ đã khám phá ra một thiên đường nơi hạ giới: “Đây ong bướm đây tuần mật… Tháng giêng ngọt ngào như đôi môi gần kề”. Nếu Thế Lữ khuyên con người về chốn bồng lai tiên cảnh… thì Xuân Diệu đẩy con người về với trần gian, cõi trần gian… Hạnh phúc là đây trần gian…
– Vì vậy Xuân Diệu muốn chúng ta chạy đua với thời gian, tận hưởng vẻ đẹp của mùa xuân và tuổi trẻ, nhà thơ không muốn chúng ta phí hoài cuộc đời mình trong những cuộc chè chén vô nghĩa mà phải cống hiến đến cùng. tuổi trẻ… “Ta muốn ôm… muốn ôm… uống… muốn ôm… cắn…”
3. Kết luận
Vì vậy, không thể coi bài thơ Haastig là bài thơ cổ súy cho lối sống vội vàng, ích kỷ và tiêu cực. – Lời thơ là khát vọng sống mãnh liệt, dấn thân, tận tuỵ, rất đáng trân trọng.
c) Phương thức tính điểm:
– Điểm 6: Đáp ứng các yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi nhỏ về diễn đạt.
– Điểm 4: Trình bày được 1/2 yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi về diễn đạt.
– Điểm 2: Nội dung sơ sài, diễn đạt kém.
Điểm 0: Hoàn toàn lạc đề.
Câu 2:
a) Yêu cầu về kỹ năng:
Biết cách làm bài văn nghị luận phân tích một hình ảnh. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
b) Yêu cầu về kiến thức:
1. Giới thiệu vài nét về tác giả Vũ Trọng Phụng, tác phẩm Số đỏ, đặc biệt là đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” và hình ảnh đám tang ông cố.
2. Hình ảnh đám ma được thể hiện trong đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”:
– Đó là một đám tang sang trọng: xe kiệu, lợn quay, kèn, kèn tây, kèn Tàu…
– Đó là đám tang ba hình thức Tây, Tàu, Ta: có 300 câu đối, mấy trăm người đi đưa, chú Tư Tấn sai một đám thợ ảnh nghiệp dư thi nhau như hội chợ, ông bầu tai to mặt lớn Khi xưa Người đàn ông đi lại gần quan tài, khi nhìn thấy làn da trắng ngần trong chiếc áo voan trên cánh tay và ngực của Tuyết, mọi người càng xúc động hơn khi nghe tiếng kèn nhảy nhót thật não nề…
– Đó là một đám tang mà chính tác giả đã viết: “Thật là một đám tang vĩ đại mà dù người chết không gật đầu cũng có thể làm cho người chết nằm trong quan tài mỉm cười hạnh phúc… Đó là đám tang của một người. Cái chết trở thành đại tiệc của người sống…
– Đó là một đám tang “bất cứ nơi nào có bạo loạn. Cả thành phố náo động và ca ngợi đám tang hoành tráng, đúng với di nguyện của cụ cố Hồng”.
– Đó là một cuộc diễu hành “Cứ đi”, nhưng bản thân nó đã phơi bày tất cả những xấu xa, kệch cỡm của xã hội thành thị… Họ đi dự đám ma nhưng để “về vợ con, nhà cửa v.v… bàn về tủ quần áo mới mua”. , cái áo mới may…” Họ vào tiệc để “xem chim” nhau, cười với nhau, khoe râu các kiểu, khoe huân chương các loại… với cái “cái nét mặt buồn bã của người đi đám tang”…
3. Bút pháp xây dựng hình ảnh
– Hình tượng chủ yếu được xây dựng theo phong cách tả thực: miêu tả toàn diện và miêu tả chi tiết từng sự việc, cử chỉ, hành động,…
– Hình tượng còn được xây dựng bằng lối viết trào phúng với các thủ pháp: phóng đại, trào phúng, nhại, nói ngược, đối lập tương phản, xây dựng mâu thuẫn trào phúng…
4. Ý nghĩa của hình ảnh:
Phản ánh hiện thực của một xã hội thối nát, dối trá, băng hoại về đạo đức…
– Bằng bút pháp trào phúng, hình ảnh tự nhiên đã phơi bày trò hề lớn của xã hội “chó chết”, “dởm chó”, “dơ dáy”: đám tang ông cố.
– Hình ảnh ấy đã góp phần hình thành phong cách tác giả và tạo nên một Vũ Trọng Phụng xứng danh “Ông vua làm báo xứ Bắc”.
c) Phương thức tính điểm:
– Điểm 7: Đáp ứng các yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi nhỏ về diễn đạt.
– Điểm 4: Trình bày được 1/2 yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi về diễn đạt.
– Điểm 2: Nội dung sơ sài, diễn đạt kém.
Điểm 0: Hoàn toàn lạc đề.
Câu 3:
1. Giới thiệu chung về tác giả và tác phẩm
– Huy Cận là nhà thơ xuất sắc, tiêu biểu cho phong trào Thơ mới 1932 – 1945.
– “Tràng Giang” (sáng tác năm 1939, in trong tập “Lửa thánh”) là bài thơ nổi tiếng và tiêu biểu nhất của Huy Cận trước Cách mạng Tháng Tám. “Tràng Giang” tiếp nối mạch thơ truyền thống bằng sự cách tân chân chính.
2. Giải thích câu nói
– Vòng thơ truyền thống: cảm hứng của văn học truyền thống thường buồn: Buồn về thế thái nhân tình; nỗi buồn trước sự nhỏ bé hữu hạn của kiếp người trước cái vô cùng, vô biên của đất trời – “nỗi buồn vũ trụ”; nỗi buồn cho quê hương, cho thân phận của kẻ lữ khách xa quê, nỗi buồn của sự chia ly, xa cách…
– Cách tân chân chính: Là sự đổi mới trong thơ ca hiện đại về cái nhìn, cách cảm, quan niệm thẩm mỹ và nhiều cách thể hiện mới.
3. Phân tích bài thơ “Tràng Giang” để làm nổi bật một mặt của nhận định: Huy Cận có sự đổi mới thực sự trong đoạn thơ
– Hình ảnh thơ không sử dụng những ước lệ, tượng trưng truyền thống… mà rất bình dị, gần gũi với cuộc sống đời thường của người Việt Nam…
– Huy Cận đến với không gian truyền thống, nhưng mở rộng không gian ấy ra ba chiều vô tận, vô tận (dài, rộng, cao):
“Nắng xuống, trời lên, thăm thẳm
Song Long Trời Rộng Đài Cô Đơn”
Đây là không gian chúng ta thường thấy trong các bức tranh thời Phục Hưng của phương Tây hay trong các bài thơ lãng mạn của Pháp.
– Nhưng câu thơ “Mặt trời lặn từ trên trời xuống” thực sự gây ấn tượng bởi cách dùng từ mới mẻ, táo bạo (với hình ảnh của từ “sâu” thay cho cách diễn đạt thông thường “tháp”) vừa gợi mở. Tầm cao ngút ngàn đến tận trời sâu vừa thể hiện nỗi cô đơn của cái tôi trữ tình, đặc biệt là cảm giác choáng ngợp của một con người hữu hạn trước một vũ trụ vô biên.
– “Tràng Giang” cũng là một sự đổi mới trong cách thể hiện cảm xúc. Nói đến nỗi cô đơn của con người, Huy Cận đem nỗi buồn từ xa đến gần, cõi người bằng những hình ảnh cụ thể, giản dị và sáng tạo: “Củi một cành khô”, “hàng trôi”, hàng hàng”, “sân vắng”. ..Đây là nỗi niềm, tâm sự của cả một thế hệ đi trước thời đại.
– Sự đổi mới còn thể hiện ở việc sáng tạo và đưa vào những cảm xúc mới khi mượn thơ Thôi Hiệu:
Xưa Thôi Hiệu nhìn khói sóng sông mà nhớ nhà; Nhưng giờ đây, đến Huy Cận, nỗi nhớ ấy thường trực sẵn có trong lòng, được nâng lên một tầm cao hơn, với cách diễn đạt hiện đại, sáng tạo hơn: “Hoàng hôn không thuốc cũng nhớ nhà”.
– Thể thơ lục bát tuy bị hạn chế trong các niêm luật của thơ ca trung đại nhưng với giàu nhạc điệu, ngôn từ giản dị, ngắn gọn mà tinh tế đã mang đến cho “Tràng Giang” một sự hài hòa giữa ý và tình, giữa cổ điển và hiện đại.
4. Nêu suy nghĩ, cảm nhận của anh/chị về những giá trị và những đóng góp tích cực của Huy Cận đối với phong trào Thơ mới nói riêng và nền thơ ca Việt Nam nói chung qua bài thơ “Tràng Giang”
c) Phương thức tính điểm:
– Điểm 7: Đáp ứng các yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi nhỏ về diễn đạt.
– Điểm 4: Trình bày được 1/2 yêu cầu trên, còn mắc một số lỗi về diễn đạt.
– Điểm 2: Nội dung sơ sài, diễn đạt kém.
Điểm 0: Hoàn toàn lạc đề.