Như vậy, sự yếu kém về lý luận là nguyên nhân trực tiếp và rất quan trọng của bệnh kinh nghiệm. Tuy nhiên, sự yếu kém về lý luận không chỉ dẫn đến bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn đến bệnh giáo điều. Bởi vì, chính sự yếu kém về lý luận dễ dẫn đến việc chúng ta tiếp thu lý luận Mác - Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt xén, sơ sài, không đầy đủ.
Bạn đang xem: liên hệ bản thân về lý luận và thực tiễn
Việc tiếp thu lý thuyết từ cấp độ tư duy kinh nghiệm dễ dẫn đến bóp méo lý thuyết. Trước đây, khi nói về Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng Đảng ta còn nhiều khuyết điểm, một trong những khuyết điểm đó là trình độ lý luận còn thấp.
Có thể nói câu nói đó vẫn đúng cho đến ngày nay. Vì vậy, một trong những cách để nâng cao trình độ lý luận, trình độ dân trí là tôn trọng và vận dụng đúng những nguyên tắc có giá trị đã được kiểm chứng. Qua phần phân tích dưới đây, chúng tôi mong muốn giải quyết vấn đề: “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và việc vận dụng nguyên tắc này ở Việt Nam”
Danh sách tài liệu tham khảo:
- Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin / NXB: Chính trị quốc gia 2009.
- Bài báo: Nắm vững sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới của Đảng. / Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam / Tác giả: PGS. PGS.TS Trần Văn Phòng.
- Bài viết: Sự vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý tưởng và thực tiễn vào nghiên cứu lý luận chính trị ở nước ta hiện nay. / Trang thông tin Viện Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Triết học / Tác giả: TS Ngô Đình Xây
- Tiểu luận: Phân tích nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn / Nhóm số 09/ Lớp Cao học 23UD_Đại học Luật Hà Nội.
- Tiểu luận: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Phê phán bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều / Lớp cao học viễn thông khóa V _ Học viện Bưu chính Viễn thông.
Khái niệm lý thuyết và thực tiễn
Thực hành và các hình thức thực hành cơ bản
Thực tiễn là phạm trù cơ bản trong học thuyết nhận thức của chủ nghĩa Mác. Lênin nói: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm đầu tiên và cơ bản của lý luận nhận thức”.
Triết học Mác - Lênin đánh giá phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù cơ bản, nền tảng của triết học nói chung và lý luận nhận thức nói riêng. Quan điểm đó đã tạo ra sự thay đổi mang tính cách mạng trong triết học. Triết học Mác khẳng định:
Thực tiễn là tổng thể những hoạt động có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Như vậy, khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng công cụ vật chất để tác động vào đối tượng vật chất nhằm biến đổi chúng theo mục đích của mình. Đây là hoạt động đặc trưng và bản chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không ngừng được con người phát triển qua các thời kỳ lịch sử. Vì vậy, thực tiễn luôn là hoạt động vật chất có mục đích, có tính lịch sử xã hội.
Hoạt động thực tiễn có ba hình thức cơ bản:
- Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động đầu tiên và cơ bản của hiện thực. Đây là hoạt động trong đó con người sử dụng các phương tiện thích hợp tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội.
- Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng khác nhau nhằm cải thiện các mối quan hệ xã hội nhằm thúc đẩy xã hội phát triển. Đó là những hoạt động cải thiện các mối quan hệ xã hội, thay đổi chế độ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
- Thực nghiệm khoa học là hoạt động được tiến hành trong điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại các trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu. Đây là một hình thức hành nghề đặc biệt, ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.
- Giữa các loại hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó hoạt động sản xuất vật chất là cơ bản nhất và giữ vai trò quyết định. Vì nó là hoạt động khách quan, thường xuyên nhất tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của con người; Nó cũng tạo điều kiện cho các loại hình hoạt động khác. Còn các loại hoạt động khác nếu tiến bộ sẽ tạo điều kiện cho sản xuất vật chất được nâng cao; nếu phản tiến bộ thì sẽ kìm hãm sự gia tăng của sản xuất vật chất.
- Chính sự tác động qua lại giữa các dạng (hình thức) hoạt động đã làm cho thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức.

Lập luận và các cấp độ lập luận
Lý luận theo tiếng Hy Lạp là “theoria” có nghĩa là quan sát, nghiên cứu, thực hiện, thảo luận.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về “lý tính”, nhưng có thể hiểu một cách chung nhất: “Lý luận là một hệ thống tri thức tổng quát, đáng tin cậy về một lĩnh vực nhất định của thế giới. Nói cách khác, lý luận là một hệ thống những luận điểm nhất định quan hệ chặt chẽ với nhau về mặt logic và phản ánh bản chất, quy luật, hoạt động và sự phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Để tồn tại và phát triển, con người luôn tìm mọi cách để thoả mãn nhu cầu hiểu biết thế giới, trên cơ sở đó cải tạo thế giới. Sự hiểu biết của con người cũng có nhiều mức độ khác nhau.
Mức độ nhận thức thấp hơn là kinh nghiệm. Đây là loại tri giác được hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hoặc trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Có hai loại, kiến thức thực nghiệm thông thường và kiến thức thực nghiệm khoa học.
Tri thức kinh nghiệm thông thường là tri thức được hình thành từ sự quan sát trực tiếp hàng ngày.
Tri thức kinh nghiệm khoa học là loại tri thức thu được từ quá trình điều tra các thí nghiệm khoa học, loại tri thức này quan trọng ở chỗ nó là cơ sở để hình thành nhận thức và lý luận khoa học.
Hai loại tri thức này có quan hệ mật thiết với nhau, thẩm thấu vào nhau tạo nên sự phong phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm.
Cấp độ cao hơn của nhận thức kinh nghiệm là nhận thức lý tính. Đây là nhận thức gián tiếp, trừu tượng và có tính hệ thống trong việc khái quát bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng. Kết quả của kiến thức lý thuyết là kiến thức lý thuyết.
Tri thức lý luận mang tính gián tiếp vì nó được hình thành và phát triển trên cơ sở nhận thức kinh nghiệm. Tri thức lý luận mang tính trừu tượng, khái quát vì nó chỉ tập trung phản ánh bản chất thường xuyên của sự vật, hiện tượng. Như vậy, tri thức lý luận thể hiện chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn.
Ngoài ra, căn cứ vào tính chất tự phát hay tự giác của quá trình nhận thức, có thể chia nhận thức thành: nhận thức thông thường và nhận thức khoa học.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Vai trò của thực hành trong lý luận
lý luận và thực tiễn không ngừng phát triển trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, trong đó thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức, lý luận là tiêu chí kiểm nghiệm chân lý.
Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động cơ, mục đích của nhận thức. Điều này là do :
Con người liên hệ với thế giới hiện thực bên ngoài bằng thực tiễn, chỉ thông qua hoạt động thực tiễn, con người mới nhận thức được thế giới khách quan. Thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức, nó quy định những nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động, phát triển của nhận thức.
Con người luôn có nhu cầu khách quan là giải thích và cải tạo thế giới, điều đó buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình, làm cho sự vật diễn ra. sự vận động, biến đổi, từ đó làm bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ bên trong giúp con người nhận thức bản chất, các quy luật vận động, phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó, các lý thuyết khoa học được hình thành.
Mặt khác, thực tiễn là động lực thúc đẩy hoạt động thực tiễn ở chỗ: nhờ hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy logic không ngừng được củng cố và phát triển; phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại, có tác dụng “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
Hơn nữa, thực tiễn là mục đích của nhận thức. Cụ thể: nhận thức ra đời và không ngừng hoàn thiện trước hết không phải do bản thân nhận thức mà do thực tiễn sinh ra để giải đáp những vấn đề thực tiễn đặt ra và chỉ đạo, định hướng hoạt động thực tiễn. Chính nhu cầu của thực tiễn đã dẫn đến sự hình thành và phát triển các bộ môn khoa học, biến tri thức thành phương tiện làm cho hoạt động thực tiễn ngày càng có hiệu quả.
Thực tiễn đóng vai trò là tiêu chí của chân lý, kiểm nghiệm chân lý của quá trình nhận thức. Điều này là như vậy bởi vì:
Thực tiễn là thước đo giá trị của những nhận thức thu được trong quá trình nhận thức, đồng thời không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
Xem thêm: vẽ con trai
Nhận thức thường diễn ra theo cả hai quá trình gồm hình thức trực tiếp và hình thức gián tiếp, tất yếu kết quả của nhận thức không phản ánh đầy đủ các thuộc tính của sự vật. Mặt khác, trong quá trình hình thành kết quả nhận thức, sự vật cần nhận thức không đứng yên mà đang trong quá trình vận động không ngừng.
Tri thức phù hợp với thực tiễn chung được thực tiễn kiểm nghiệm là tri thức đúng, là chân lý và ngược lại, khi được thực tiễn kiểm nghiệm mà không phù hợp thì có thể chứng minh tri thức đó là sai.
Như vậy, bắt đầu từ thực tiễn, người ta khái quát, tổng hợp và xây dựng thành lý luận. Chính sự phát triển của thực tiễn đã đặt ra những câu hỏi đòi hỏi lý luận phải trả lời. Lý luận được hình thành, phát triển, kiểm nghiệm trong thực tiễn và tiếp tục được bổ sung, phát triển trong thực tiễn.
Vai trò của lý thuyết trong thực tế
Lý luận được hình thành và phát triển trên cơ sở thực tiễn, nhưng nó có tính độc lập tương đối. Điều đó thể hiện ở chỗ, không phải mọi lý luận đều xuất phát từ kinh nghiệm, có những lý luận được xây dựng trên cơ sở dữ liệu thực nghiệm trước đó. Điều này chỉ có thể được giải thích bởi tính ưu việt và vượt trội của tư duy trừu tượng của con người. Lý luận có vai trò rất to lớn đối với thực tiễn, nó tác động trở lại làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người.
Lý luận khoa học phản ánh chính xác hiện thực khách quan. Nó góp phần hạn chế tính mò mẫm, tự phát, nâng cao tính tự giác, tích cực trong hoạt động của con người.
Từ những điểm trên, chúng ta cần nắm vững những điểm áp dụng sau :
Thứ nhất, nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn.
Thứ hai, nhận thức phải dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn.
Thứ ba, phải coi trọng việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.
Đồng thời, chúng ta cũng cần chống quan liêu, chủ quan, duy ý chí, nhất là tránh chủ nghĩa kinh nghiệm, thực dụng.
Áp dụng tại Việt Nam
Phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều
Ở Việt Nam, việc sử dụng sai hai nguyên tắc này chủ yếu dẫn đến hai sai lầm: chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều.
Chủ nghĩa giáo điều là phương pháp tư duy áp dụng những khái niệm, công thức bất biến, không chú ý đến những tài liệu mới của thực tiễn và khoa học, những điều kiện cụ thể về địa điểm và thời gian, tức là coi thường nguyên tắc về tính cụ thể.
Điều này được thể hiện cụ thể nhất trong các hệ thống văn bản pháp luật cũ của nước ta và cách áp dụng cũ. Chúng ta được thừa hưởng những văn bản “thừa thãi” đến mức sử dụng cả câu văn của hệ thống pháp luật nước ngoài (Nga). Trong khi tình hình xã hội, chính trị và kinh tế của các quốc gia không giống nhau ở mỗi thời điểm.
Vừa rồi, chúng ta đã đồng loạt vi phạm quy tắc thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất trong việc xây dựng Hội đồng Hiến pháp. Trong khi hoàn cảnh thực tế chúng ta chưa có bước đệm, chưa có đủ khối lượng hành trì để có thể duy trì Đại hội này. Việc nghiên cứu tốn nhiều công sức, tiền bạc nhưng Hiến pháp 2013 không ghi nhận có hội đồng bảo hiến nào.
Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò lý luận. Chúng ta đã có rất nhiều dự án đầu tư sai thời điểm, gây lãng phí, thất thoát ngân sách. Trong khi đó, trước khi thực hiện các nghiên cứu dự án dựa trên các nguyên tắc và lý thuyết kinh tế - xã hội, họ đều chỉ ra tính kém hiệu quả và rủi ro cao. Tuy nhiên, vì kinh nghiệm tuyệt đối nên các dự án này vẫn được duyệt với lý do chủ dự án đã có nhiều kinh nghiệm thành công trước đó.
tiến độ hiện tại
Tuy nhiên, hiện nay chúng ta cũng đã vận dụng và thực hiện đúng nguyên tắc này, tạo ra những chính sách phù hợp, kịp thời kích thích phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt phải kể đến chính sách khuyến khích và tạo điều kiện khởi nghiệp bằng cả sự khuyến khích của chính phủ cũng như của cả cộng đồng, chia sẻ tri thức, đơn giản hóa thủ tục…
Thực tế, nước ta năm qua có thể gọi dưới cái tên “quốc gia khởi nghiệp” với hơn 1500 doanh nghiệp khởi nghiệp gọi được số vốn lên đến hàng chục triệu USD từ các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam bắt kịp cuộc cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay.
Tuy nhiên, xét cho cùng, chúng ta vẫn cần vận dụng đúng đắn, phù hợp nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn để dự đoán đúng tương lai, trở thành “cẩm nang” tin cậy cho kinh tế - xã hội nước nhà. trang chủ.
lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, thống nhất với nhau. Trong đó, thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý. Và lý thuyết ra đời sau sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của thực tiễn.
Vì lý luận và thực tiễn thống nhất với nhau nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải quan tâm đúng mức cả hai yếu tố này; Coi trọng lý luận nhưng không phóng đại, tuyệt đối hóa vai trò của lý luận, coi thường thực tiễn, tách lý luận với thực tiễn. Lênin cho rằng, ý chí của con người, hiện thực của con người đối lập với việc thực hiện mục đích của con người, v.v., bởi vì chúng tách rời khỏi nhận thức và không thừa nhận thực tại bên ngoài là tồn tại khách quan. Quan thoại. Phải có sự cân bằng giữa lý thuyết và thực hành.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn rằng: "Lý luận và thực tiễn thống nhất với nhau là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực hành mà không có lý luận là thực hành mù quáng. Lý luận mà không liên quan đến thực tiễn là lý luận suông". .”
Trong điều kiện đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc nghiên cứu và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào thực tiễn xã hội ta là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần những chính sách và định hướng “gãi đúng chỗ ngứa” như chính sách “quốc gia khởi nghiệp” hiện nay.
Trên đây là nội dung trả lời cho câu hỏi của chúng tôi về vấn đề: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và việc vận dụng nguyên tắc này ở Việt Nam. Trong quá trình giải quyết nếu còn vướng mắc bạn có thể liên hệ với chúng tôi qua Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.
Trân trọng./.
Xem thêm: vẽ quần
Bình luận