nghị luận về bài thơ viếng lăng bác


Bài văn về bài thơ ngắn Viếng Bác Hồ lớp 9 Bao gồm đề cương chi tiết 22 mẫu tốt nhất do các thầy cô trường THPT chuyên Lê Hồng Phong biên soạn và tổng hợp từ những bài văn đạt điểm cao trên cả nước. Hi vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các em tham khảo từ đó hoàn thành bài tập làm văn của mình

Đề tài : Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác

Nghị luận về bài thơ Viếng lăng Bác
Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác

Nội dung chính

Dàn ý Nghị luận về bài thơ Viếng lăng Bác

Dàn ý Nghị luận về bài thơ Viếng lăng Bác – đề số 1

I. Giới thiệu

Giới thiệu tác giả Viễn Phương và bài thơ Viếng lăng Bác.

II. Thân hình

Một. Câu 1:

Tác giả sống ở miền Nam cho đến sau khi nước nhà giành được độc lập, vào thăm vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Hai chữ “Nam” như muốn nhấn mạnh khoảng cách địa lý giữa hai đầu đất nước.

Nhìn những hàng tre quanh lăng Bác, nhà thơ chợt cảm thấy những hàng tre ấy như ý chí của dân tộc Việt Nam bao năm qua luôn bất khuất, kiên cường và hào hoa. Dù đi qua “mưa bão” vẫn sát cánh bên nhau một lòng.

Từ “xanh xanh” diễn tả con người Việt Nam, con người Việt Nam mãi mãi là “xanh”, màu xanh muôn thuở.

b. Câu 2:

“Ngày qua ngày” là sự liên tục của thời gian, sự lặp đi lặp lại theo chu kỳ của tự nhiên cũng như lý tưởng, ý chí của Ngài sẽ luôn sáng tỏ như vầng thái dương. Biện pháp nghệ thuật hoán dụ: nếu mặt trời soi sáng cho nhân loại thì Bác Hồ là mặt trời của cả dân tộc Việt Nam, đem lại ánh sáng độc lập, tự do cho dân tộc.

Lần thứ hai, “ngày qua ngày” được lặp lại khi miêu tả dòng người lặng lẽ vào lăng viếng Người. Dòng người bước đi trong trang nghiêm và lặng lẽ, trong tiếc thương đau thương.

Người đọc dường như cảm nhận được sự im lặng, nối dài như vô tận của dòng người vào viếng Bác. Cả đoàn người chỉ biết lặng lẽ “đi trong niềm thương nhớ” về vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc.

Viễn Phương hòa vào dòng người mang theo tấm lòng kính yêu chân thành dâng Bác, dâng “bảy mươi chín mùa xuân” của Người. Cả cuộc đời với bảy mươi chín mùa xuân, đều cống hiến cho dân tộc, không một giây phút ngơi nghỉ cho riêng mình.

c. khổ thơ 3

Bác nằm đó, nhẹ nhàng, thanh thản như đang chìm vào giấc ngủ ngon. Cả đời ông chỉ có một tâm nguyện duy nhất là đất nước được bình yên. Để rồi khi đất nước được hòa bình, độc lập, Người đã yên giấc ngàn thu.

Bầu trời bao năm vẫn xanh, một màu vĩnh cửu, nhưng vị cha già của dân tộc đã phải ra đi. Vẫn biết quy luật sinh diệt của tạo hóa mà lòng vẫn ngậm ngùi đau xót. Dù lý trí luôn chỉ rõ quy luật tự nhiên là bất biến, nhưng trong lòng vẫn “nghe có tiếng”.

d. khổ thơ cuối

Bao nhiêu đau đớn, nghẹn ngào chỉ tuôn trào theo dòng nước mắt.

Từ “muốn” được lặp lại ba lần như khẳng định lại ước nguyện của nhà thơ. Đó là khát khao mãnh liệt, khát khao cháy bỏng được ở bên anh chỉ để được làm “con chim hót”, “bông hoa”, “cây tre trung thành”.

→ Cả khổ thơ thể hiện niềm khát khao cháy bỏng của tác giả, đó cũng là mong ước của mỗi con người Việt Nam. Đó là luôn được ở bên cạnh Người, bên cạnh vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.

III. Kết thúc

Tóm tắt giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Dàn ý Nghị luận về bài thơ Viếng lăng Bác – số 2

I. Giới thiệu:

  • Giới thiệu tác giả và tác phẩm

II. Thân bài:

Một. Cảm xúc khi đứng từ xa nhìn vào Lăng Bác

– Bồi hồi, xúc động khi vào thăm lăng Bác:

  • Câu thơ như một lời giới thiệu, một lời tự sự chân thành “Tôi ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.
  • Tác giả xưng “con trai”: thể hiện sự gần gũi, thân mật.
  • Động từ “thăm viếng”: cách nói giảm nói tránh, giảm đau thương mất mát

– Hình ảnh “hàng tre”:

  • Hình ảnh thực tế: Hàng tre xanh bên lăng Bác
  • Tượng trưng cho tâm hồn, lòng trung thành và sự ngay thẳng của người Việt Nam

– Động từ “ơi”: bộc lộ niềm xúc động, tự hào.

b. Cảm xúc của tác giả khi vào lăng Bác:

– Hình ảnh ẩn dụ, so sánh “mặt trời”:

  • Ẩn dụ: “Mặt trời” là Bác Hồ, là nguồn sáng chói lọi, rực rỡ.
  • So sánh: mặt trời thiên nhiên và “mặt trời” của Bác đều tỏa sáng rực rỡ.

– Hình ảnh “dòng người đưa tiễn”: nỗi niềm tiếc thương của nhân dân trước sự ra đi của Bác.

– Từ “ngày qua ngày”: diễn tả sự lặp đi lặp lại thường xuyên, không ngừng

– Kết tinh hình ảnh “bảy mươi chín mùa xuân tràng hoa”:

  • Sáng tạo hình ảnh ẩn dụ: “dòng người” – tràng hoa: Tràng hoa của lòng người, lòng biết ơn, kính trọng của người dân Việt Nam đối với Bác Hồ.
  • “bảy chín mùa xuân”: ẩn dụ tuổi Bác

– Lòng biết ơn chân thành và sự xúc động nghẹn ngào của tác giả:

  • Lời nói tránh né Bác Hồ ra đi “Bác nằm trong lăng Bác ngủ yên”
  • Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền”: liên tưởng thú vị của nhà thơ gợi tâm hồn cao cả, giản dị của Bác, đồng thời gợi nhớ những vần thơ về trăng của Người.

– Cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ “Vẫn biết trời xanh mãi/ Sao trong lòng lại đau”:

  • Nỗi đau, nỗi buồn trước sự ra đi của Bác
  • Nỗi xúc động, tê tái trong tâm hồn “nhói trong tim”.

c. Cảm xúc của nhà thơ trước khi rời lăng Bác:

– Cuộc chia ly cay đắng, nỗi nhớ nhung của người con phương Nam: “Mai vào Nam nước mắt giàn giụa”: một cuộc chia tay xúc động chứa chan tình cảm sâu nặng.

Lời chúc chân thành của nhà thơ:

  • Điệp ngữ “muốn làm”: nhấn mạnh khát khao, mong ước của nhà thơ.
  • Con muốn là con chim, là bông hoa, là cây tre để hằng ngày được ở bên Bác.
  • Hình ảnh “cây tre” cuối bài thơ là hình ảnh ẩn dụ chỉ con người Việt Nam.
  • “Tre trung thành”: Người Việt Nam anh dũng bất khuất, trung với Đảng, hiếu với dân

III. Kết thúc:

  • Cảm nhận chung: Đoạn thơ là tình cảm chân thành, thành kính của nhà thơ và mọi người đối với Bác.

22 Bài văn mẫu Nghị luận về bài thơ Viếng lăng Bác hay nhất

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 1

Trong số những bài thơ viết về Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại, niềm tự hào của dân tộc, chúng ta không thể không nhắc đến tác phẩm Viếng lăng Bác in trong tập thơ “Như mây xuân” của Viễn Phương. đó là một bài thơ vô cùng xúc động, một bài thơ ngắn nhưng là tấm lòng thành kính, tiếc thương vô hạn của nhà thơ nói riêng và của đồng bào miền Nam đối với vị cha già kính yêu của dân tộc. sắc tộc.

Quả thật, Viễn Phương là một trong những cây bút sớm nhất của văn nghệ giải phóng miền Nam thời chống Mỹ. Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu cảm xúc, mộng mơ ngay cả ở nơi chiến trường ác liệt. Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976 khi đất nước thống nhất, bài thơ là cảm xúc, là niềm mong mỏi, là mong ước của nhà thơ cũng như của các chiến sĩ, đồng bào miền Nam khi vào viếng lăng Bác.

Mở đầu bài thơ là cảm xúc của nhà thơ khi vào viếng lăng Bác, đó là cảm xúc của một người con đi từ một nơi rất xa cả về không gian và thời gian, nay được trở về bên Bác. thể hiện sâu sắc trong khổ thơ.

Em vào Nam viếng lăng Bác

Nhìn trong sương hàng tre

Ồ! Hàng tre xanh Việt Nam

Mưa bão rơi thẳng hàng hàng.

Câu thơ mở ra như một lời tự sự, một lời thông báo giản dị nhưng chất chứa nhiều điều. Miền Nam là nơi tuyến đầu của Tổ quốc, nơi có biết bao anh hùng đã ngã xuống, nên đây không chỉ đơn thuần là chuyến viếng thăm để chiêm bái hài cốt của một vĩ nhân, mà chuyến đi này còn là tìm về cội nguồn, về với quê hương. để báo công với Bác, về được Bác ôm vào lòng.

Ở đây nhà thơ nói bằng tiếng trai, cách xưng hô rất gần gũi, nhưng vẫn rất cung kính, thiêng liêng. Đoạn thơ còn chứa đựng cảm xúc muốn đi viếng Bác, nhà thơ không nói thăm mà là thăm vì đây là cách nói giảm đi nỗi đau Bác vẫn còn sống trong lòng đồng bào miền Nam, trong lòng đồng bào. người ở Nam Bộ. Với mỗi người con Việt Nam, đó cũng chính là niềm xúc động sau bao năm xa cách của lòng người con được về thăm cha, thăm nơi Bác nằm cho thỏa nỗi nhớ mong, mong mỏi.

Ấn tượng đầu tiên mà tác giả quan sát và cảm nhận được đó là hình ảnh hàng tre trong sương có biết bao sức sống “Thấy trong sương, hàng tre bao la.

Ồ! Hàng tre xanh Việt Nam

Mưa bão rơi thẳng hàng”.

Sự xuất hiện của hàng tre đầu tiên không chỉ là hình ảnh rất thân thuộc, gần gũi của làng quê, đất nước Việt Nam mà nó còn là hình ảnh bất khuất của dân tộc Việt Nam dù khó khăn, gian khổ nhưng nhân dân ta vẫn chiến đấu anh dũng, không bao giờ khuất phục. đứng lên, luôn “đứng trong hàng ngũ”, luôn đoàn kết chiến đấu đến cùng vì sự nghiệp lớn của đất nước. Chỉ một khổ thơ ngắn nhưng nói lên được biết bao tình cảm chân thành, thiêng liêng của nhà thơ cũng như của nhân dân đối với Bác.

Sang khổ thơ thứ hai là những cảm xúc chân thành của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác:

Ngày qua ngày nắng qua lăng

Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên

Ngày qua ngày dòng người bước đi trong tình yêu

Hết bảy mươi chín mùa xuân cúng dường…

Nhà thơ đã sử dụng thành công nghệ thuật so sánh khi so sánh Bác với mặt trời. Hình ảnh mặt trời đi qua trên lăng chính là mặt trời của thiên nhiên, là nguồn sống và trường sinh bất tử. Còn hình ảnh mặt trời trong lăng là hình ảnh Bác Hồ, nếu không có mặt trời cũng có nghĩa là sẽ không có sự sống, dân tộc Việt Nam cũng vậy.

Nếu như vậy, Bác Hồ chính là mặt trời chói lọi sưởi ấm nhân dân, là người dẫn đường cho sự nghiệp cách mạng giải phóng, tự do của dân tộc, đó cũng là niềm tự hào của dân tộc ta khi có Bác Hồ.

Cũng như vậy, nhà thơ lấy hình ảnh đoàn người hàng ngày vào lăng viếng Bác là hình ảnh thường xuyên của người dân Việt Nam, những dòng người lặng lẽ từ khắp mọi miền đất nước đã lặng lẽ về đây viếng lăng Bác. . “Dòng người đi trong tình yêu”. Đoàn kết thành vòng hoa bất tận dâng người đầu xuân.

“Tràng hoa” ở đây theo nghĩa thực có nghĩa là những bông hoa tươi kết thành vòng hoa được thiếu nhi cả nước và thế giới đến dâng lên Bác để bày tỏ lòng kính yêu, tấm lòng kính yêu của mình. niềm tự hào của họ hay vòng hoa ấy còn mang ý nghĩa ẩn dụ chỉ từng người đang nối đuôi nhau hàng ngày vào viếng lăng Bác kết thành vòng hoa dài bất tận dâng Người 79 mùa xuân, 79 năm cuộc đời. Hình ảnh chính là lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc của nhân dân đối với vị cha già kính yêu.

Ngoài lăng, khi bước vào lăng, không khí trang nghiêm như ngưng tụ cả không gian và thời gian, sự im lặng trang nghiêm và ánh sáng dịu nhẹ trong trẻo của không gian trong lăng đã được diễn tả qua khổ thơ:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa vầng trăng sáng dịu dàng

Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim.

Đứng trước Bác, nhà thơ cảm thấy Bác đang ngủ yên bình, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh Bác Hồ nằm ngủ yên bình giữa vầng trăng sáng dịu hiền, câu thơ vừa thực vừa mơ gợi bao liên tưởng. Vầng trăng ấy gợi cho ta tâm hồn, cách sống thanh cao, cao thượng, trong sáng của Bác Hồ và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Bác.

Đúng là chỉ nhờ trí tưởng tượng, sự hiểu biết và lòng yêu mến những nét đẹp trong nhân cách Hồ Chí Minh mà nhà thơ mới có thể sáng tạo nên những hình ảnh thơ đẹp đến thế!

Tâm trạng xúc động của nhà thơ được diễn tả bằng hình ảnh ẩn dụ “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. Bầu trời xanh là hình ảnh của thiên nhiên trường tồn mãi mãi, cũng như Bác Hồ vẫn mãi với non sông đất nước, nhưng những vì sao vẫn rộn ràng trong tim. Đó là nỗi đau tan nát, nỗi đau mất mát da diết trong lòng, nỗi đau không thể diễn tả thành lời, nỗi đau đó không chỉ của riêng tác giả mà còn là nỗi đau của hàng triệu người Việt Nam, hàng triệu trái tim.

Cuối cùng, cảm xúc dâng trào sau giây phút ngắn ngủi bên em, để một mai trở lại phương Nam, khát khao được hóa thân, hòa nhập với cảnh sắc nơi đây để được bên anh mãi mãi.

Vào Nam nước mắt rưng rưng

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?

Bạn muốn trở thành bông hoa thơm ở đâu?

Muốn làm cho nơi này vị tre…

Điệp từ “muốn làm” và những hình ảnh đẹp về thiên nhiên “chim”, “hoa”, “tre” đã thể hiện niềm khát khao tha thiết, mãnh liệt của tác giả. Đó là cảm xúc rất thực không chỉ ở nhà thơ mà của bất cứ ai đến viếng Bác. Nhà thơ mong ước được hóa thân thành chú chim nhỏ hót véo von bên lăng Bác, thành bông hoa đem sắc màu tô điểm cho vườn hoa quanh lăng. Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây trúc trung thành ở nơi này” để có thể canh giấc ngủ cho mọi người.

Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp lại ở câu thơ cuối như mang một ý nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm trọn vẹn dòng cảm xúc. “Cây tre trung kiên” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu vô hạn và lòng trung thành đối với Bác Hồ. Bài thơ “Viếng lăng Bác” khép lại với bao nỗi nhớ nhung da diết, không muốn rời xa.

Tóm lại, nhà thơ Viễn Phương thật tài hoa khi sử dụng thành công các biện pháp tu từ để thể hiện rõ nét lòng biết ơn chân thành từ đáy lòng cùng với niềm xúc động thiêng liêng, lòng kính trọng xen lẫn niềm tự hào đau đớn của nhà thơ. thơ ca nói riêng và của toàn dân tộc Việt Nam nói chung tới vị cha già đáng kính của dân tộc.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 2

Trong số những bài thơ viết về Bác sau khi Người đi, bài “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một bài thơ xuất sắc. Đoạn thơ thể hiện tình cảm kính yêu, tiếc thương và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với vị lãnh tụ bằng những cảm xúc chân thành, tha thiết và sâu sắc.

Từ mảnh đất phương Nam mấy chục năm chiến đấu gian khổ, tác giả hành hương ra Bắc. Xúc động, ông đến Ba Đình:

Tôi vào Nam thăm lăng Bác.

Nhìn trong sương hàng tre

Ồ! cửa hàng tre xanh việt nam

Mưa bão rơi thẳng hàng

Câu thơ mở đầu thật thiêng liêng, trân trọng nhưng vẫn gợi không khí ấm cúng, thân mật không chỉ ở cách gọi “con trai” mà còn ở cách dùng từ có hàm ý giảm nhẹ. Nhà thơ không nói “thăm” mà nói “thăm”, như người con về thăm cha, thăm nơi Bác Hồ yên nghỉ. Nỗi đau dường như muốn che giấu nhưng giọng thơ vẫn đượm niềm ngậm ngùi. Hình ảnh đầu tiên gây ấn tượng mạnh với tác giả là hình ảnh hàng tre trong sương sớm vươn mình trải rộng một màu xanh khiến cho lăng Bác uy nghiêm bỗng trở nên thân thuộc, gần gũi như một làng quê Việt Nam. Hình ảnh hàng tre “đứng thẳng hàng” trong “mưa bão” đã trở thành biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh ấy như một khúc dạo đầu để mở ra một chuỗi suy nghĩ rộng lớn và sâu sắc:

Ngày qua ngày nắng qua lăng

Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên .

“Mặt trời trong lăng” là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ, mặt trời thiên nhiên đem lại ánh sáng và sự sống. Mặt trời của Bác còn là ánh sáng soi đường đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc. Mặt trời Bác tỏa rạng. Sự sáng sủa, ấm áp, sóng đôi và trường tồn cùng ánh nắng tự nhiên là sự sáng tạo riêng của tác giả. Cách nói vừa ca ngợi sự vĩ đại, bất tử của Bác vừa thể hiện lòng kính trọng, cảm phục, biết ơn. vô hạn đối với Bác… Tất cả những tình cảm ấy kết thành một ý thơ tuyệt đẹp:

Ngày qua ngày dòng người bước đi trong tình yêu

Hết bảy mươi chín mùa xuân cúng dường.

Điệp ngữ “ngày qua ngày” và hình ảnh “dòng người đi trong vòng đưa tiễn” vừa gợi ấn tượng về sự trường tồn vĩnh hằng vừa là lòng người không nguôi nhớ thương Bác Hồ. Tình yêu ấy đã kết thành vòng hoa tươi đẹp cho mùa xuân 79 của Bác kính yêu. Nhịp thơ chậm rãi, dàn trải, lặp cấu trúc câu, lặp từ gợi bước chân chậm rãi của mọi người vào lăng viếng lăng Bác trong không khí linh thiêng, thành kính, nồng nàn.

Đứng trước di hài Bác, bao tình cảm nâng niu bỗng trào dâng trong tiếng thổn thức:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa vầng trăng sáng dịu dàng

Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim .

“Trời xanh”, “vầng trăng” là những hình ảnh thiên nhiên kỳ vĩ, chiêm nghiệm về cái cao siêu, vĩ đại, bất tử, trường tồn. Bác vẫn mãi với sông núi, người đã hóa thân vào thiên nhiên, đất nước. Sự nghiệp của ông là bất tử. Dù tin như vậy nhưng lòng ông vẫn đau đáu khi nghĩ Bác không còn nữa. Nỗi đau ấy được diễn tả cụ thể, trực tiếp “mà sao nghe như dao đâm vào tim! “Đó là nỗi đau, niềm thương vô hạn của người con quá cố khi về với hài cốt của người cha kính yêu.

Mỗi cuộc gặp gỡ, đó là thời gian để nói lời tạm biệt. Nỗi nhớ nhung, nỗi đau bị kìm nén cho đến khi bật khóc:

Vào Nam nước mắt rưng rưng

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?

Bạn muốn trở thành bông hoa thơm ở đâu?

Muốn làm cho nơi này vị tre.

Ước được hóa thân thành chim, hoa, cây trúc để canh giữ, tô điểm cho nơi vị lãnh tụ kính yêu yên nghỉ. Hình ảnh cây tre lặp lại ở cuối bài tạo ấn tượng mạnh, thể hiện lòng kính yêu và biết ơn vô hạn đối với Bác Hồ. Điệp ngữ “muốn làm”, cấu trúc câu được lặp lại tạo thành một nốt nhạc dồn dập, tha thiết diễn xướng. Diễn tả những cảm xúc và ham muốn mãnh liệt. Bài thơ khép lại trong sự xa cách của không gian, nhưng lại tạo nên sự gần gũi trong tình cảm và ý chí. Như vậy, chân đi mà lòng người con phương Nam ở lại. Tiếng nói của trái tim, của mong muốn. đó không chỉ của riêng tác giả mà đã trở thành tiếng nói chung của nhiều người.

“Viếng lăng Bác” là một bài thơ giàu chất suy tưởng, giàu chất trữ tình với việc sử dụng nhiều ngôn ngữ, giàu giọng điệu khiến bài thơ nhanh chóng được đông đảo bạn đọc đón nhận. nhanh chóng được phổ nhạc và trở thành ca khúc sâu lắng, truyền cảm và quen thuộc với mọi người Việt Nam.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 3

Bác Hồ là vị cha già kính yêu của dân tộc ta. Viết về Bác Hồ, có lẽ chúng ta không bao giờ ghi hết được những công lao to lớn của Người đối với dân tộc. Ngay sau khi Bác mất, nhiều bài thơ hay viết về Bác đã ra đời. Tiêu biểu trong số đó là bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.

Cũng như bao người dân Việt Nam khác, mỗi lần nhắc đến Bác Hồ là một niềm xúc động dâng trào trong lòng. Bác mất là niềm thương tiếc của toàn dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy mà trong từng câu kệ đều hàm chứa lòng biết ơn, tôn kính đối với Ngài. Và bài thơ “Viếng lăng Bác” đã thể hiện rõ điều đó.

Mở đầu bài thơ, tác giả cho ta thấy xuất xứ:

Em vào Nam viếng lăng Bác

Lòng thành kính Bác Hồ đã thôi thúc người lính Viễn Phương từ miền Nam ra viếng Lăng Bác. Không ngại đường khó. Đến với Bác là một điều tuyệt vời và ý nghĩa. Nhìn từ xa qua màn sương, nhà thơ thấy rõ ngọn tre:

Nhìn trong sương hàng tre

Ồ! Hàng tre xanh Việt Nam

Mưa bão rơi thẳng hàng

Thán từ “ơi” gợi lên trong người đọc những cảm xúc dạt dào. Dù chưa được gặp Bác nhưng chỉ nhìn thấy hàng tre cũng đã khiến trái tim tác giả như nghẹn lại. “Hàng tre xanh Việt Nam”, một hình ảnh tượng trưng tuyệt vời. Người Việt vốn dĩ gắn bó với lũy tre xanh. Nhắc đến tre, ta nghĩ ngay đến những con người Việt Nam cần cù, chịu khó một nắng hai sương. Dù phải hứng chịu bao nhiêu bom đạn của những năm tháng chiến tranh, tre và người vẫn hiên ngang hiên ngang.

Hai câu thơ tiếp theo thật đặc sắc:

Ngày qua ngày nắng qua lăng

Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên

Chúng ta đều biết, trong tự nhiên chỉ có một mặt trời. Điệp ngữ “ngày qua ngày” cho ta thấy sự diễn biến không ngừng của thời gian. Dường như không có ngày nào mà mặt trời không đi ngang qua lăng Bác. Nắng bao trùm không gian bên ngoài lăng Bác. Còn không gian bên trong lại có một mặt trời khác chiếu rọi. Mặt trời đó là Bác Hồ. Nhà thơ Viễn Phương có một sự ví von rất tinh tế bởi khi còn sống Bác Hồ đã chỉ cho chúng ta con đường đi tìm ánh sáng của tự do. Màu “đỏ lắm” càng làm nổi bật hình ảnh Bác Hồ.

Ngày qua ngày dòng người bước đi trong tình yêu

Hết bảy mươi chín mùa xuân cúng dường

Ở hai câu thơ tiếp theo, Viễn Phương vẫn dùng cụm từ “ngày ngày” để chỉ dòng người không ngừng đổ về viếng lăng Bác. Không chỉ các nhà thơ, ai cũng muốn một lần được đến thăm Bác để tưởng nhớ đến vị anh hùng của dân tộc. Động từ “xin dâng” thể hiện lòng biết ơn, kính trọng của nhân dân đối với Bác Hồ. Ở đây tác giả không nói dâng hoa cho Bác mà nói “bảy mươi chín mùa xuân” nói đến tuổi của Bác. Chú của chúng tôi đã ra đi ở tuổi bảy mươi chín.

Khổ thơ thứ ba tả cảnh Bác Hồ bình yên.

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa vầng trăng sáng dịu dàng

Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim

Sau bao nhiêu năm đấu tranh cho Tổ quốc, giờ đây Bác đã nằm xuống, mắt nhắm nghiền như đang ngủ. Đó là một giấc ngủ sâu kéo dài mãi mãi. Trông yên bình là thế nhưng lòng người ở lại cứ thấy nhói đau. Chỉ đọc bài thơ thôi cũng thấy trong lòng ta gợn sóng. Đó là một sự mất mát to lớn, một nỗi buồn nhiều năm không thể nguôi ngoai.

Khổ thơ cuối kết thúc bằng lời tiễn biệt Bác của nhà thơ. Đồng thời, nhà thơ cũng mong muốn được hóa thân thành con chim, thành bông hoa, thành cây trúc để mãi mãi ở bên cạnh mình.

Vào Nam nước mắt rưng rưng

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?

Bạn muốn trở thành bông hoa thơm ở đâu?

Muốn làm nơi này vị tre.

Qua 4 khổ thơ với giọng điệu chân chất, bình dị, người đọc cảm nhận được tình cảm của nhà thơ Nam bộ đối với Bác kính yêu. Đoạn thơ khép lại nhưng vẫn để lại trong lòng người đọc những ám ảnh, xót xa. Nhà thơ Viễn Phương không chỉ nói lên được tình cảm của mình mà còn có thể nói thay cho cả dân tộc. Nó quý giá biết bao.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 4

Bác Hồ là người có công lao to lớn đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Bác Hồ ra đi để lại nỗi buồn chung cho cả nhân loại. Bao nhiêu năm kể từ ngày Bác mất, đồng bào ta vẫn tưởng nhớ đến Người với những tình cảm chân thành nhất. Để bày tỏ tình cảm với con người, nhà thơ Viễn Phương đã viết bài thơ Viếng lăng Bác nhân dịp Bác ra Hà Nội viếng lăng Bác.

Bài thơ mở đầu bằng cảnh lăng:

“Em vào Nam viếng lăng Bác

Nhìn trong sương hàng tre

Ồ! Hàng tre xanh Việt Nam

Mưa bão rơi thẳng hàng”.

Không gian xung quanh lăng gợi cảm giác uy nghiêm nhưng cũng vô cùng thơ mộng. Đó là hàng tre xanh xanh ẩn hiện trong sương sớm. Hàng tre bao đời nay vẫn đứng đó, chở che, che chở, bảo vệ cho lăng Bác yên bình. Hàng tre – biểu tượng của người Việt Nam từ ngàn đời nay với những đức tính, phẩm chất đáng quý. Tuy mạnh mẽ, kiên cường, trung hậu, bất khuất nhưng cũng vô cùng giản dị, mộc mạc và đoàn kết. Không phải tự nhiên mà người ta trồng tre quanh lăng Bác, cũng không phải tự nhiên mà nhà thơ lại đưa hình ảnh hàng tre vào thơ của mình. Dù cho phong ba, bão táp, mưa gió hay thời tiết khắc nghiệt đến đâu, cây tre vẫn hiên ngang, vươn lên bảo vệ giấc ngủ bình yên của Người. Cả khổ thơ chứa đựng những cảm xúc đầu tiên của tác giả khi lần đầu tiên được vào thăm lăng Bác với những cung bậc, cảm xúc khác nhau nhưng thấm đượm nghĩa tình sâu nặng.

Khổ thơ thứ hai thể hiện tâm trạng của tác giả khi nhìn thấy bóng Bác:

“Ngày ngày nắng qua lăng

Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên

Ngày qua ngày mặt trời đi trong tình yêu

Kết thúc bảy mươi chín mùa xuân cúng dường”

Cả khổ thơ là lời tri ân công ơn của Bác, đó cũng là lòng biết ơn, sự biết ơn vô hạn của mọi người dân Việt Nam đối với Bác. Hai câu thơ đầu là một hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Mặt trời của thiên nhiên trong câu thơ đầu là mặt trời của thiên nhiên, là nguồn sống của muôn loài, mọc lên và lặn đi hàng ngày như một quy luật, một vòng tuần hoàn của cuộc sống. Mặt trời đó quan trọng, quý giá và chỉ có một. Tuy nhiên, mặt trời tự nhiên gặp một mặt trời đẹp và tươi sáng khác. Đó là “mặt trời trong lăng” – hình ảnh ẩn dụ về Bác Hồ với những hy sinh to lớn cho dân tộc. Điệp ngữ thời gian “ngày qua ngày” một lần nữa được sử dụng với ý khẳng định tính liên tục của nó. Dòng người vào lăng viếng Bác nối nhau tạo thành một “dòng người”. Và tất cả “đồng bào” đều có chung một tâm tư, tình cảm kính yêu Bác Hồ. Qua nghệ thuật ẩn dụ, dòng người nối đuôi nhau kết thành “tràng hoa” dâng lên Bác hiện lên thật đẹp. Viễn Phương mượn hình ảnh ẩn dụ “bảy mươi chín mùa xuân” để nói về tuổi của Bác. Bác mất nhưng luôn sống ở tuổi bảy mươi chín với sức xuân tràn trề. Viễn Phương đã cô đọng và kết tinh những cảm xúc để tri ân người cha đã mang mùa xuân đến cho đất nước và con người Việt Nam.

Khổ thơ tiếp theo, nhà thơ Viễn Phương vừa miêu tả hình dáng Bác Hồ vừa bộc lộ cảm xúc của mình:

“Tôi nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa vầng trăng sáng dịu dàng

Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim”.

Hai câu thơ đầu nói lên sự bình yên, thanh thản của Bác. Dù Bác đã về cõi vĩnh hằng không bao giờ trở lại, nhưng đối với tác giả và nhân dân trên trái đất, Bác vẫn chỉ đang “ngủ”, Bác vẫn đang sống mãi với chúng ta. Bác nằm đó, nhẹ nhàng và thanh thản. Cả đời ông chỉ có một tâm nguyện duy nhất là đất nước được bình yên. Để rồi khi đất nước được hòa bình, độc lập, Người đã yên giấc ngàn thu. Người như vầng trăng tỏa ánh sáng dịu dàng. Ánh sáng dịu hiền của một tấm lòng cao thượng, suốt đời hy sinh vì nước vì dân; vầng trăng của một đất nước, một dân tộc đã giành được độc lập, tự do.

Bầu trời bao nhiêu năm rồi vẫn xanh, một màu trường tồn mãi với thời gian. Con người ai cũng phải tuân theo quy luật sinh, lão, bệnh, tử; Ai cũng sinh ra, lớn lên rồi già đi, rồi đến lúc chết, vào thiên thu, vĩnh hằng, Bác Hồ cũng không ngoại lệ. Chúng ta đều biết Bác đã mất hình ảnh Bác vẫn sống mãi trong lòng dân tộc Việt Nam, Bác luôn đồng hành, dõi theo từng bước đi của dân tộc. Nhưng nhận thức là thế, nhưng trái tim vẫn có lý lẽ riêng, trái tim nhà thơ vẫn nhức nhối, đau đến xé lòng. Dù tự an ủi rằng đó là quy luật tự nhiên nhưng lòng anh đau đớn khôn xiết. Nỗi đau ấy bất chấp nhận thức của khối óc và trái tim.

Khép lại bài thơ là những cảm xúc được nhà thơ kể trước khi trở về phương Nam:

Vào Nam nước mắt rưng rưng

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?

Bạn muốn làm cho bông hoa nở ở đâu?

Muốn làm cho nơi này vị tre…

Biết bao đau đớn, nghẹn ngào chỉ biết tuôn trào theo dòng nước mắt tiễn biệt người con khi một lần nữa phải xa cha. Những từ ngữ giản dị thể hiện tình cảm của nhà thơ đối với Bác cũng như của mọi người khi phải rời xa lăng. Từ “trào dâng” thể hiện cảm xúc mãnh liệt, nỗi nhớ da diết, không muốn rời xa nơi Bác đã ở. Từ “muốn” được lặp lại ba lần như khẳng định lại ước nguyện của nhà thơ. Những lời chúc đó thật đáng quý biết bao! Nhà thơ muốn làm con chim hót để mang âm thanh thiên nhiên tươi đẹp đến nơi Bác yên nghỉ; muốn làm một bông hoa tỏa hương thơm cao quý; muốn làm cây tre trung thành giữa giấc ngủ êm đềm. Hình ảnh cây tre quả là một hình ảnh đẹp và được khép lại rất khéo ở cuối bài thơ để tạo nên một kết cấu kết bài tương ứng. Mở đầu bài thơ, nhà thơ cũng mở đầu bằng hình ảnh hàng tre, là hình ảnh mà tác giả nhìn thấy khi bước vào lăng. Nó còn là hình ảnh biểu tượng cho dân tộc Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Nhưng kết thúc bài thơ là hình ảnh cây tre trung thành canh giữ cho Bác yên giấc ngủ say. Cả khổ thơ thể hiện niềm khát khao cháy bỏng của tác giả, đó cũng là mong ước của mỗi con người Việt Nam. Đó là luôn được ở bên cạnh Người, bên cạnh vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.

Viếng lăng Bác là một bài thơ ngắn mà ý thơ sâu sắc, hình ảnh thơ, cảm xúc thơ dạt dào. Bài thơ như một khúc ca vang dội ca ngợi Bác Hồ và thể hiện tình cảm, tình cảm của chính nhà thơ Viễn Phương đối với Bác Hồ. Đã nhiều năm trôi qua nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị tốt đẹp ban đầu và để lại ấn tượng trong lòng nhiều thế hệ người đọc.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 5

Nhà thơ Viễn Phương tên thật là Phan Thanh Viễn, ông sinh năm 1928 tại An Giang. Ông là nhà thơ có nhiều sáng tác ấn tượng và đi vào lòng người đọc. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được ông viết năm 1976. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, ông có dịp ra Hà Nội viếng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ đã được in trong tập “Như mấy mùa xuân”. Bài thơ ca ngợi công lao của Bác Hồ, đồng thời bày tỏ lòng tiếc thương, kính trọng, biết ơn Bác Hồ – tình yêu thương vô bờ bến.

Bài thơ “Viếng lăng Bác” được đánh giá là một trong những bài thơ sâu sắc nhất viết về Bác Hồ. Đoạn thơ thể hiện tình cảm kính yêu của nhà thơ đối với vị lãnh tụ của dân tộc bằng ngôn ngữ tinh tế và giàu cảm xúc nhất.

“Em vào Nam viếng lăng Bác

Nhìn trong sương hàng tre

Ồ! Hàng tre xanh Việt Nam

Mưa bão rơi thẳng hàng”

Đây là những dòng đầu của bài thơ, mang một cảm xúc riêng và khác của tác giả, cảm xúc xúc động của người con từ phương xa trở về viếng Bác cũng giống như cảm xúc của con cháu khi viếng mộ người thân. thịt của mình. Viễn Phương từ xa đã thấy Lăng Bác – Nơi Bác yên nghỉ trong sương, những hàng tre mang trong mình sức sống mãnh liệt. Hàng tre xanh như tâm hồn của người Việt, tư thế của người Việt trước phong ba bão táp vẫn hiên ngang hiên ngang, như dáng đứng hiên ngang của người Việt.

“Ngày ngày nắng qua lăng

Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên

Ngày qua ngày dòng người bước đi trong tình yêu

Kết thúc bảy mươi chín mùa xuân cúng dường”

Bác yên nghỉ trong lăng, Bác nằm đó, như vẫn dõi theo từng bước chân của dân tộc. Hình ảnh “Mặt trời” được nhắc đến hai lần, nhà thơ đã cố ý đặt hai hình ảnh đó cạnh nhau, bổ sung cho nhau để câu thơ thêm ý nghĩa. Hai câu thơ song hành với nhau, đối đáp, bổ sung ý nghĩa cho nhau.

Một mặt trời tự nhiên giữa đời thực, rực rỡ, vĩnh hằng vẫn “Từng ngày” tỏa sáng, vẫn tỏa hơi ấm cho vạn vật. Đặc biệt hơn, khi tác giả đặt mặt trời thực và mặt trời ẩn dụ trong lăng, luôn tỏa hơi ấm của mình sưởi ấm mọi người dân đất Việt. Mặt trời cũng tỏa sáng, nó cũng tự tỏa sáng. Màu “đỏ lắm” làm cho câu văn thêm sâu sắc, ấn tượng về mặt ngữ nghĩa.

Bác Hồ đối với dân tộc Việt Nam là một vị lãnh tụ, một vị cha già dân tộc, một người có công với dân tộc. Những người con như Viễn Phương hàng ngày vẫn hòa vào dòng người vào viếng Bác, mang theo sự thành kính, trang trọng nhất. Dòng người rất đông, xếp thành vòng hoa dâng Bác. Tràng hoa ấy gồm muôn ngàn đóa hoa tươi thơm. Mỗi bông hoa một dáng, một màu, một hương, kết thành những tràng hoa dâng lên Ngài. Tràng hoa ấy, hữu hình hay vô hình, đều mang đến cho Bác một lòng biết ơn vô hạn.

“Tôi nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa vầng trăng sáng dịu dàng

Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim”

Bác Hồ – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, sự hy sinh của Bác là sự tri ân của cả dân tộc đối với Bác. Bác đã đi xa nhưng sự trường tồn, bất diệt luôn hiện hữu. Bác đã đi xa, nhưng nằm trong lăng, Bác vẫn như đang ngủ yên bình.

“Ngày mai vào Nam sẽ chan chứa nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?

Bạn muốn trở thành bông hoa thơm ở đâu?

Muốn làm nơi này vị tre”

Khổ thơ cuối là tình cảm, cảm xúc của tác giả trước sự hy sinh của Bác Hồ, nhà thơ không chỉ thể hiện khát vọng của riêng tác giả mà còn là khát vọng của cả dân tộc, muốn được làm con chim hót. Vui bên lăng Bác hay muốn làm bông hoa tỏa hương cho đời, tỏa hương bên cạnh nơi Bác yên nghỉ. Khổ thơ thể hiện tình cảm của tác giả trước lăng Bác và sự hi sinh của Bác. Sự hy sinh đó của Bác là một tổn thất to lớn của dân tộc, nhưng con người không thể tránh khỏi quy luật sinh – lão – bệnh – tử.

Nói một cách giản dị, đặc biệt là bằng tình cảm kính yêu đối với vị lãnh tụ vĩ đại của cả dân tộc. “Viếng lăng Bác” đã mang đến cho người đọc cảm giác bùi ngùi trước nơi an nghỉ của vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.

Từ chiến trường miền Nam, nhà thơ Viễn Phương đã mang theo tình cảm của bao người dân miền Nam về viếng lăng Bác, đây như sự hồi hương của nhà thơ về cội nguồn, về miền, về quê hương của chính mình. Nhà thơ Viễn Phương mang đến một tình cảm dâng trào, một cảm xúc của người con trước nơi an nghỉ của vị lãnh tụ dân tộc kính yêu.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 6

Tôi nhớ miền Nam, nhớ nhà

Miền Nam nhớ Bác nhớ Cha”.

Nhân dân miền Nam luôn mong ước đất nước thống nhất, đón Bác Hồ về thăm, nhưng Bác đã qua đời để lại cho nhân dân miền Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung niềm tiếc thương vô hạn. Tình cảm ấy đã được nhà thơ Viễn Phương thể hiện một cách xúc động, trong lần đầu tiên vào thăm lăng Bác qua bài “Viếng lăng Bác”. Bài thơ là kết tinh của tình cảm thiết tha nhớ mong Bác Hồ không chỉ của nhà thơ mà còn của hàng triệu chiến sĩ, đồng bào miền Nam – đồng bào cũng như thi sĩ – dù chưa một lần gặp Bác trong đời. đúng, nhưng tôi đã nhìn thấy nó hàng nghìn lần trong giấc mơ, trong nỗi nhớ, trong những lý tưởng cao đẹp nhất của tôi.

Từ trong khói lửa chiến tranh, người lính Viễn Phương đã đến Hà Nội, trái tim của Tổ quốc, viếng Bác. Khổ thơ đầu thể hiện cảm xúc của tác giả về cảnh vật bên ngoài lăng Bác. Câu mở đầu bài thơ giản dị mà chân thành thể hiện hoàn cảnh ra thăm lăng Bác, mở ra một không khí thân mật, trang nghiêm: “Em ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Sử dụng danh xưng “con – Bác” và thay “viếng” bằng “đến thăm”, nhà thơ vừa thể hiện sự kính trọng một cách gần gũi, vừa làm giảm đi sự xót xa. Như vậy, người đọc hiểu rằng Bác Hồ vẫn còn sống, chỉ là đang ngủ một giấc rất dài. Câu thơ tuy không được gọt giũa từng chữ nhưng gây xúc động cho người đọc bởi đây là tiếng nói từ đáy lòng của người con đi xa về với cha. Câu thơ trầm lắng nhưng bên trong chất chứa một nỗi đau mất mát khôn nguôi.

Nhìn trong sương hàng tre

Ôi lũy tre xanh xanh Việt Nam

Mưa bão rơi thẳng hàng”.

Đến gần lăng, không gian của những “hàng tre” lẫn trong sương sớm hiện ra ngay trước mắt với câu cảm thán “ôi” thể hiện một trạng thái cảm xúc của nhà thơ. Xung quanh lăng Bác là hình ảnh hàng tre quen thuộc, gắn bó với làng quê Việt Nam, cũng là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho con người Việt Nam với sức sống bền bỉ, kiên cường trước mọi phong ba, thử thách. cứng. Màu tre mãi mãi xanh tươi như sức sống bất diệt của dân tộc Việt Nam trước những thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên và lịch sử. Hàng tre bên lăng Bác khẽ đung đưa, nâng niu giấc ngủ ngàn năm của Bác như thuở còn thơ, tre làm bạn với Người.

Tham Khảo Thêm:  trống đánh xuôi kèn thổi ngược là phương châm gì

Hai bài thơ là cảm xúc của Viễn Phương trước ngày vào viếng lăng Bác. Bác nằm trong lăng vẫn sống mãi với đất nước, còn sáng mãi muôn đời:

“Ngày ngày nắng qua lăng

Thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên”

Mặt trời của thiên nhiên đem lại sự sống cho muôn loài, nhắc nhở tác giả rằng Bác của chúng ta cũng là mặt trời, đã soi đường cho con người đi lên từ bóng tối nô lệ đến với cuộc sống tươi sáng. của tự do và độc lập. Vô vàn tiếc thương công lao to lớn của Bác được nhà thơ linh hoạt ví như những bông hoa để tỏ lòng thành kính đối với Bác:

“Ngày qua ngày dòng người bước đi trong tình yêu

Kết thúc bảy mươi chín lễ vật mùa xuân…”

Sử dụng nghệ thuật hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân”, tác giả vừa ca ngợi bảy chín năm cuộc đời của Bác đẹp như mùa xuân, vừa bày tỏ lòng biết ơn Bác đã mang mùa xuân đến cho đất nước. Kết hợp với khẩu hiệu “ngày qua ngày”, hình ảnh Bác Hồ mãi mãi trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam.

Bao cảm xúc dâng trào khi Viễn Phương bước những bước đầu tiên vào lăng Bác ở khổ thơ thứ ba:

“Tôi nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa trăng sáng dịu hiền”

Với giọng điệu trang nghiêm, thành kính, phù hợp với không khí linh thiêng, tĩnh lặng nơi lăng, nhà thơ khiến ta hình dung Bác Hồ vẫn đang say giấc nồng sau bao đêm dài thức trắng vì nước, vì dân. Trong giấc ngủ vĩnh hằng của Bác Hồ, vầng trăng là bạn của Người – một nét miêu tả hiện thực chính xác, tinh tế – gợi cho ta tâm hồn trong sáng, cao đẹp như vầng trăng của Bác, đồng thời gợi cho ta sự quyến luyến. Bác Hồ gần gũi với trăng và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Bác.

“Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim”

Hình ảnh “bầu trời xanh” ca ngợi sự vĩ đại, linh thiêng và sự bất tử của Bác, khẳng định Người hóa thân vào thiên nhiên đất nước, dân tộc. Tuy nhiên, dẫu biết rằng Bác Hồ vẫn mãi mãi như bầu trời xanh cũng không thể che đậy được việc Bác đã ra đi. Câu hỏi tu từ cuối khổ thơ thứ ba cất lên như một tiếng khóc nghẹn ngào, bộc lộ trực tiếp nỗi đau quá lớn không gì có thể bù đắp được.

Khổ thơ khép lại với nỗi nhớ của tác giả trước lúc ra đi.

“Ngày mai vào Nam sẽ chan chứa nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?

Muốn làm cho hoa nở ở đây

Muốn làm cho nơi này vị tre.”

Nghĩ đến miền Nam ngày mai mà xót xa ứa nước mắt. Không phải nước mắt hay nước mắt, mà trào dâng – một cảm xúc mãnh liệt. Lòng xót xa như dồn nén trong tim, làm nảy sinh bao khát khao. Đó là nguyện vọng được làm con chim hót quanh lăng Bác, để lại chút niềm vui với người đã hy sinh vì nước. Đó là ước được làm bông hoa tỏa hương thoang thoảng thật sang, cũng là ước được làm cây tre trung thành quanh lăng. Mọi ước nguyện đều quy về một điểm, ước mong được ở gần Bác để mãi mãi được nguôi ngoai, được xoa dịu những giá lạnh của người đã hy sinh mạng sống vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, dành trọn tình yêu thương. tình yêu dành cho mọi tầng lớp nhân dân.

Bài thơ tả một ngày Viễn Phương vào viếng lăng Bác từ tờ mờ sáng cho đến trưa, rồi chiều. Xuyên suốt bài thơ là sự trào dâng của nỗi nhớ mênh mang, niềm xót thương vô hạn, được thể hiện qua những hình ảnh ẩn dụ đầy đẹp đẽ và tao nhã từ trái tim của nhà thơ. Vì vậy, “Viếng lăng Bác” là một đóng góp quý báu vào kho tàng thơ văn viết về Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc Việt Nam ta.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu số 7

Viếng Lăng Bác được Viễn Phương sáng tác năm 1976 ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi, tác giả cùng một đoàn đại biểu miền Nam vào viếng lăng Bác. Bài thơ là những lời xúc động của một người con đến viếng vị cha già của dân tộc. Tác phẩm không chỉ gửi gắm tâm trạng của chính tác giả mà còn là nỗi lòng của bao người, bao thế hệ Việt Nam.

“Em vào Nam viếng lăng Bác”

Câu thơ nghe thật thân thương, gần gũi, là “con” chứ không phải đại từ nào khác. Cách lựa chọn từ ngữ của tác giả tinh tế nhưng cũng rất tình cảm thể hiện sự yêu thương, gần gũi như người thân trong gia đình. Tác giả đến thăm Bác như người con về thăm cha sau bao năm xa cách.

Ngoài ra, Thanh Hải cũng tỏ ra là một người rất tinh tế khi dùng từ “thăm” chứ không phải “thăm”, cách nói giảm nói tránh làm giảm bớt nỗi đau mất mát nhưng vẫn không giấu được. cảm thấy đau đớn, xót xa.

Bước chân vào lăng, điều mà tác giả ấn tượng nhất chính là không gian của những hàng tre xanh ngút ngàn. Nhưng tác giả không dừng lại ở hàng tre hiện thực ấy mà còn nghĩ đến con người Việt Nam: “Ôi lũy tre Việt Nam xanh xanh/ Bão táp vẫn đứng thẳng hàng”. Đó là phẩm chất của người Việt Nam.

Ngày qua ngày nắng qua lăng

Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên

Đoạn thơ có hai hình ảnh mặt trời sóng đôi: hình ảnh mặt trời ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của thiên nhiên đem lại sự sống cho muôn loài, hình ảnh mặt trời này được nhân hóa “đi qua trên lăng” để thấy. ngắm nhìn, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của “mặt trời bằng lăng đỏ lắm”. Dùng hình ảnh ẩn dụ, mặt trời trong lăng là biểu tượng cho Bác Hồ.

Bác đã đem lại ánh sáng và sự sống cho dân tộc Việt Nam, Bác đã đưa nhân dân ta thoát khỏi cảnh nô lệ tăm tối đau khổ bước sang cuộc sống mới làm chủ vận mệnh, đất nước. Sử dụng hình ảnh “mặt trời” để nói về Bác Hồ là ca ngợi tấm gương đạo đức sáng ngời của Bác cũng như những công lao to lớn của Bác đối với toàn thể dân tộc Việt Nam. Qua hình ảnh ẩn dụ, tác giả vừa khẳng định sự vĩ đại, bất tử của Bác Hồ, đồng thời thể hiện lòng biết ơn, ngưỡng mộ của tác giả nói riêng và của nhân dân nói chung đối với Bác.

Trước tấm lòng của Bác, sự tận tụy của Bác “dòng người” ngày ngày vẫn kính cẩn cúi đầu, mang tấm lòng thành kính đến viếng Bác. Hình ảnh “ tràng hoa” là hình ảnh đẹp của dòng người vào viếng lăng Bác. Mỗi con người như một bông hoa, họ mang những gì đẹp đẽ nhất của đời mình với tấm lòng kính trọng và tiếc thương vô hạn lên Bác Hồ kính yêu.

Ở đây, tác giả dùng điệp ngữ “bảy mươi chín mùa xuân” để cho thấy Bác Hồ đã sống một cuộc đời tươi đẹp như mùa xuân và làm nên mùa xuân cho đất nước. Cách nói ấy đã gián tiếp khẳng định sự sống bất tử của Bác Hồ trong lòng mọi người.

Càng đến gần Bác, tác giả càng nghẹn ngào, xúc động: “Bác đang trong giấc ngủ êm đềm/ Giữa vầng trăng sáng hiền/ Vẫn biết rằng trời xanh mãi/ Nhưng sao nhói trong tim”. . Sau bao năm tháng lưu lạc, Bác đã yên nghỉ, ngủ một giấc ngủ êm đềm, thanh thản trong không gian trang nghiêm, tĩnh lặng với người bạn tri kỷ: ánh trăng. Để rồi không kìm được xúc động, tác giả đã bật lên một câu cảm thán, nhường chỗ cho nỗi đau không thể giấu được.

Giây phút được gặp Bác thực sự quá ngắn ngủi, giây phút chia tay lại một lần nữa khiến tác giả thổn thức, cảm xúc dâng trào, bật khóc: “Mai vào Nam lòng rưng rưng”. Câu thơ như tiếng khóc nức nở, nghẹn ngào. Dù cố kìm nén nhưng không được, Viễn Phương thổn thức, lưu luyến không muốn rời xa.

Ba câu thơ cuối là lời chúc giản dị nhưng rất chân thành của tác giả. Điệp ngữ “muốn làm” được lặp lại ba lần cùng với phép liệt kê tạo nên âm hưởng dồn dập, thể hiện khát vọng chân thành, mãnh liệt của Viễn Phương. Anh muốn là con chim biết hót, là bông hoa tỏa hương thơm ngát, là cây trúc hằng ngày canh giữ giấc ngủ êm đềm của Bác.

Bằng những ngôn từ đẹp đẽ, chân thành, tác giả đã bày tỏ tình cảm tha thiết không chỉ của riêng mình mà còn của cả dân tộc Việt Nam trước vị lãnh tụ, vị cha già của dân tộc Việt Nam. Qua đó, tác giả cũng phát hiện và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam: kiên cường, bền bỉ, trọng nghĩa tình, trung nghĩa.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 8

Con người ấy đã sống một cuộc đời tươi đẹp như suối nguồn, đem lại mùa xuân vĩnh cửu cho đất nước, dân tộc. Quả thật, Viễn Phương đã rất khéo léo trong việc lựa chọn giọng điệu, ngôn ngữ và hình ảnh để thể hiện một cách sâu sắc lòng kính trọng, ngưỡng mộ của mình đối với Bác Hồ. Trong khuôn khổ bốn câu thơ trên, Viễn Phương đã hai lần sử dụng ẩn dụ “ngày ngày”: “Ngày ngày nắng qua lăng”, “Ngày ngày dòng người đi trong nhớ thương”. Hai câu thơ miêu tả hai hiện tượng khác nhau: một về thiên nhiên, một về cuộc sống, nhưng ý nghĩa tương đồng, các ý nghĩa gắn bó với nhau. Đó là tình cảm của nhân dân ta đối với Bác Hồ tự nhiên, gần gũi như đất trời, vĩnh hằng như quy luật của vũ trụ. Khổ thơ ngắn gọn, giàu sức khái quát.

Viếng lăng Bác, lòng nhà thơ đau xót, tiếc thương vô hạn trước sự mất mát của Người, mặc dù bản thân nhà thơ cũng như bao thế hệ vẫn cảm nhận rằng Bác chưa mất mà “còn trong giấc ngủ êm đềm”. “Sau hành trình 79 năm không nghỉ. Người yêu trăng tha thiết, vậy mà chưa bao giờ được yên ngắm trăng, bởi có khi phải nhìn trăng qua song sắt nhà lao chật hẹp, có khi “quân bận”… Nhà thơ Viên Phương đã có thật. tinh tế và sâu sắc khi liên tưởng ánh trăng với vầng trăng người bạn tri kỉ của Bác. Nhịp điệu câu văn trở nên gấp gáp với điệp ngữ “muốn làm” được lặp lại ba lần càng nhấn mạnh ước nguyện chân thành sâu sắc của tác giả. Và hàng loạt hình ảnh ẩn dụ đã cụ thể hóa ước nguyện ấy: “chim” dâng tiếng hót, “hoa” dâng hương thơm, “cây tre hiếu thảo” canh giữ cho Bác Hồ yên giấc ngủ yên. Tất cả đều ở bên lăng, xung quanh lăng. Tất cả đều thể hiện lòng kính yêu vô hạn của tác giả và nhân dân đối với Bác Hồ.

Sau ngày Bác Hồ “đi xa”, bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một trong những bài thơ đặc sắc nhất viết về Bác Hồ. Đoạn thơ thể hiện tình cảm kính yêu, tiếc thương và biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với vị lãnh tụ bằng một ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc sâu lắng. Nó đã được phổ biến và lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Câu thơ mở đầu cho thấy xuất xứ của bài thơ:

Dù “Bác đi nối dõi tông đường” nhưng trong lòng mọi người dân Việt Nam, Bác vẫn sống mãi. Và toàn dân tộc Việt Nam quyết giữ thi hài của Người để hàng ngày con cháu vào Lăng viếng Người. Sau ngày hòa bình, sông núi Việt Nam thu về một mối. Trong số những người con vào lăng viếng Bác có nhà thơ Viễn Phương. Quá xúc động, thân thương, biết ơn, tự hào và đau xót trong những giây phút được ở bên Bác, nhà thơ Viễn Phương đã viết bài thơ Viếng lăng Bác. Em vào Nam viếng lăng Bác

Từ chiến trường miền Nam, nhà thơ Viễn Phương mang theo bao tình cảm của đồng bào, ra trận vào viếng lăng Bác Hồ kính yêu. Đây là cuộc hành hương của một chiến binh. Từ xa, nhà thơ đã nhìn thấy hàng tre ẩn hiện trong sương mờ trên quảng trường Ba Đình lịch sử. Làn sương trong câu thơ gợi không khí linh thiêng, thần thoại. Những cây tre, hàng tre “đứng thẳng hàng” trong làn sương mỏng, thấp thoáng, xanh mướt một màu. Những “hàng tre xanh” rất quen thuộc được nhân hóa, trải qua bao “bão táp mưa sa” vẫn “đứng thẳng hàng” như dáng đứng của dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất trong bốn nghìn năm lịch sử.

Được viết năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương thể hiện niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ với Bác Hồ trong một lần vào viếng lăng Bác. thăm Bác.

“Viếng lăng Bác” được viết trên một cảm hứng thơ cụ thể, giàu cảm xúc. Bố cục bài thơ chặt chẽ, giọng thơ có lúc nhanh, lúc chậm. Bài thơ mở đầu bằng câu thơ:

“Em vào Nam viếng lăng Bác

Thấy trong sương những hàng tre bạt ngàn”

Đoạn thơ gợi không khí đầm ấm, thân mật. Và tác giả đã làm tăng thêm sự gần gũi ấy không chỉ bằng những câu thơ giản dị mà còn bằng cách sử dụng hình ảnh hàng tre. Gắn bó với làng quê Việt Nam, cây tre đã trở thành hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam. Tác giả đặt lăng Bác trong màu xanh của đất nước, nơi có những con người dũng cảm, kiên cường “Dạo mưa đứng xếp hàng”.

Hình ảnh ẩn dụ trong khổ thơ thứ hai cũng rất đặc sắc. Viễn Phương dùng hình ảnh mặt trời trên lăng để chỉ mặt trời trong lăng là Bác. Sự trường tồn, vĩnh cửu của Mặt trời được nhà thơ dùng để nói lên sự bất diệt, vĩ đại của Bác Hồ.

Và đồng thời nó cũng thể hiện lòng kính trọng của tác giả đối với Bác. Từ “hồng lắm” thể hiện hình ảnh rực rỡ tấm lòng cách mạng của Bác Hồ.

Cùng với hình ảnh Mặt trời – trong lăng là hình ảnh vòng hoa – dòng người thể hiện sâu sắc niềm tiếc thương vô hạn của nhân dân ta trước sự ra đi của Bác:

“Ngày qua ngày dòng người bước đi trong tình yêu

Hết bảy mươi chín mùa xuân cúng dường.”

Lý trí cho rằng Bác sẽ mãi mãi sống với sông núi như trời xanh, nhưng Viễn Phương không khỏi đau xót trước sự ra đi của Bác:

“Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim”.

Một từ “cong” mà nói lên tấm lòng của người con miền Nam viếng Lăng Bác – cũng là tấm lòng của miền Nam và cả nước đối với Bác kính yêu.

Cảm xúc của tác giả trào dâng lên đến đỉnh điểm khi phải rời lăng Bác:

“Ngày mai vào Nam nước mắt đầm đìa”

Giọng thơ trầm lắng thể hiện nỗi nhớ của Viễn Phương: chân thành, xúc động. Giọng thơ bỗng trở nên lấn át trước cụm từ “muốn làm”. Đó là tất cả tâm nguyện của tác giả:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Bạn muốn trở thành bông hoa thơm ở đâu?

Muốn làm cho nơi này vị tre.”

Những mong ước ấy thật giản dị, ước mong được mãi mãi gần Bác, mãi mãi đi theo lý tưởng của Người không chỉ là tâm tư của nhà thơ. Hình ảnh cây tre chung thủy khép lại bài thơ, một sự liên kết tròn trịa rất đẹp. Cây tre là hình ảnh mở đầu và kết thúc. Điều đó như khắc sâu phẩm chất con người Việt Nam trung hậu, anh dũng.

Quả thật, Viễn Phương đã rất khéo léo trong việc lựa chọn giọng điệu, ngôn ngữ và hình ảnh để thể hiện một cách sâu sắc lòng kính trọng, ngưỡng mộ của mình đối với Bác Hồ. Trong khuôn khổ bốn câu thơ trên, Viễn Phương đã hai lần sử dụng ẩn dụ “ngày ngày”: “Ngày ngày nắng qua lăng”, “Ngày ngày dòng người đi trong nhớ thương”. Hai câu thơ miêu tả hai hiện tượng khác nhau: một về thiên nhiên, một về cuộc sống, nhưng ý nghĩa tương đồng, các ý nghĩa gắn bó với nhau. Đó là tình cảm của nhân dân ta đối với Bác Hồ tự nhiên, gần gũi như đất trời, vĩnh hằng như quy luật của vũ trụ. Khổ thơ ngắn gọn, giàu sức khái quát. Viếng lăng Bác, lòng nhà thơ đau xót, tiếc thương vô hạn trước sự mất mát của Người, mặc dù bản thân nhà thơ cũng như bao thế hệ vẫn cảm nhận rằng Bác chưa mất mà “còn trong giấc ngủ êm đềm”. “Sau hành trình 79 năm không nghỉ. Con người yêu trăng tha thiết, vậy mà chưa bao giờ được thanh thản ngắm trăng, bởi có lúc phải nhìn trăng qua song sắt nhà lao chật hẹp, có lúc “quân tử bận rộn”.

Thể thơ tự do, lúc nhanh, lúc chậm cùng nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp đã tạo nên mạch cảm xúc chân thành, sâu sắc của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ là một đóng góp quý báu trong việc ngợi ca những vần thơ về Bác Hồ – vị Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam.

Dù “Bác đi nối dõi tông đường” nhưng trong lòng mọi người dân Việt Nam, Bác vẫn sống mãi. Và toàn thể dân tộc Việt Nam quyết giữ thi hài của Người để hàng ngày lớp lớp và các cháu thiếu nhi được vào Lăng viếng Người. Sau ngày hòa bình, sông núi Việt Nam thu về một mối. Trong số những người con vào lăng viếng Bác có nhà thơ Viễn Phương. Quá xúc động, kính yêu, biết ơn, tự hào và đau xót trong những giây phút được ở bên Bác, nhà thơ Viễn Phương đã viết bài thơ Viếng lăng Bác.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 9

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam thường nói “Miền Nam trong trái tim” và hứa sẽ vào thăm Bác vào ngày đất nước thống nhất. Tuy nhiên, khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất thì Bác không còn nữa. Những người con miền Nam nhớ Bác chỉ biết vào lăng viếng Bác và Viễn Phương là một trong số những người con đó. Với niềm xúc động dâng trào của người con về thăm cha, Viễn Phương đã cho ra mắt bài thơ Viếng Bác, thể hiện tình cảm của nhà thơ, của những người con cả nước, là tiếng nói kính yêu, thành kính Bác.

Đây là một trong những bài thơ hay và xúc động nhất viết về lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, gồm 4 khổ, mỗi khổ có 4 dòng. Cảm hứng bao trùm bài thơ là sự xúc động, thành kính là lòng biết ơn và tự hào xen lẫn niềm đau xót khi tác giả từ miền Nam vào viếng lăng Bác. Giọng điệu trang nghiêm, thành kính của bài thơ rất phù hợp với cảm xúc, cũng như không khí trang nghiêm của lăng Bác. Các mạch cảm xúc vận động liên quan đến thời gian và không gian của một chuyến thăm.

Bởi vậy đọc bài thơ ta như được theo tác giả vào lăng viếng Bác. Khổ 1 cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng tập trung vào hình ảnh hàng tre; khổ 2-3 trước dòng người bất tận ngày ngày vào viếng lăng Bác, nhà thơ cảm nhận và suy ngẫm về vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Khổ thơ thứ tư là cảm xúc khi sắp trở lại miền Nam, nhà thơ ước mong lòng mình được mãi ở bên lăng Bác.

Hai câu thơ đầu như một lời tự sự chứa đựng biết bao cảm xúc:

Em vào Nam viếng lăng Bác

Nhìn trong sương hàng tre

Bác mất khi đất nước còn chia cắt. Câu thơ của Viễn Phương mang theo cảm xúc của một người con miền Nam sau bao ngày mong mỏi lần đầu được vào lăng Bác. Cách xưng hô “con”, “bác” vừa gần gũi, thân thương vừa trân trọng, cung kính như một người con lâu ngày trở về thăm cha. Vì vậy, tác giả đã dùng từ “thăm” thay cho từ “thăm” để che giấu một nỗi đau đang chất chứa trong lòng. Cũng trong khổ thơ này, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tác giả về khung cảnh quanh lăng Bác là hàng tre. Nhà thơ cảm nhận đó là linh hồn thân quen của quê hương Việt Nam:

Nhìn trong sương hàng tre

Ồ! Hàng tre xanh Việt Nam

Giông tố vẫn xếp hàng.

Hình ảnh hàng tre quen thuộc đi vào mạch cảm xúc một cách rất tự nhiên nhưng mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Từ hàng tre cụ thể bên lăng Bác, nhà thơ nghĩ về cây tre Việt Nam, đến bản lĩnh, ngoan cường của dân tộc Việt Nam. Cây tre vừa được hiểu theo nghĩa thực, vừa hiểu theo nghĩa ẩn dụ. Vì thế, lăng Bác như nằm giữa làng quê Việt Nam mà trở nên gần gũi, bình dị, còn lăng Bác như nằm trong lòng dân tộc, ấm áp biết bao! Nói đến tre là nói đến Việt Nam, nói đến Việt Nam là nghĩ ngay đến Bác Hồ. Một kết nối khó hiểu khác!

Khổ thơ thứ hai bắt đầu bằng hình ảnh “mặt trời”:

Ngày qua ngày nắng qua lăng

Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên

Có hai “mặt trời”: “mặt trời” ở câu thơ trên là hình ảnh thực, còn “mặt trời” ở câu thơ dưới là hình ảnh ẩn dụ. Bác là mặt trời chói lọi, vừa thể hiện sự cao cả, lẽ sống vĩnh hằng cho nhân loại; vừa là mặt trời chói lọi của cách mạng vô sản… Lấy “mặt trời” ví von với Bác Hồ, nhà thơ đã bày tỏ lòng tôn kính cũng như lòng thành kính của toàn dân tộc Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu. Yêu.

Sự kính trọng ấy còn được thể hiện qua hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác mỗi ngày:

Ngày qua ngày dòng người bước đi trong tình yêu

Hết bảy mươi chín mùa xuân cúng dường

Người đến viếng Bác, mang hoa viếng Bác, đó là hình ảnh thực. Nhưng nhà thơ muốn nói đến một ” tràng hoa ” khác. Nhìn dòng người nối tiếp nhau như vô tận, nhà thơ như dâng lên Bác một vòng hoa. Lại là sự kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, làm nổi bật lòng thành kính của nhân dân đối với Bác.

Khổ thơ thứ ba, nhà thơ diễn tả cảm xúc của mình khi vào lăng:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa vầng trăng sáng dịu dàng

Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim!

Khổ thơ gồm 4 câu 7 chữ, cân đối, trang nghiêm, phù hợp với không khí linh thiêng, thanh tịnh nơi lăng tẩm. Không gian và thời gian như ngừng lại trước một hình ảnh vĩnh cửu. Nhà thơ có cảm giác Bác chỉ đang ngủ một “giấc ngủ bình yên”. Đó cũng chính là cảm nhận thực sự của mọi người khi đến thăm lăng và Bác. Hình ảnh “vầng trăng” là sự liên tưởng độc đáo, bất ngờ của nhà thơ. Có thể nghĩ đến điều đó bắt đầu từ thứ ánh sáng trong trẻo rất dịu nhẹ của không gian trong lăng. Khi xuất hiện trong hình ảnh thơ, “vầng trăng sáng hiền” gợi tâm hồn cao đẹp trong sáng và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người.

Từ hình ảnh “trăng” nhà thơ tiếp tục liên tưởng đến hình ảnh “trời xanh”. Bầu trời xanh là hình ảnh vĩ đại, vĩnh hằng của thiên nhiên. “Trời xanh”, “mặt trăng”, “mặt trời” trở thành sự tổng hòa của một vũ trụ bao la, kỳ vĩ. Nhà thơ Tố Hữu từng viết: “Bác sống như trời đất của chúng tôi”. Bác mất đi nhưng Bác vẫn mãi ở lại với quê hương như bầu trời xanh mãi mãi. Dù vẫn tin như vậy nhưng em không khỏi xót xa trước sự ra đi của anh: “Sao tôi nghe nhói đau trong tim!”. Câu thơ thể hiện cụ thể, trực tiếp nỗi xót xa dưới hình thức một câu hỏi tu từ.

Và đến khổ thơ cuối, nhà thơ bày tỏ nỗi nhớ da diết khi sắp trở về phương Nam:

Vào Nam nước mắt rưng rưng

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?

Bạn muốn trở thành bông hoa thơm ở đâu?

Muốn làm nơi này vị tre

“Ngày mai vào Nam”, nhớ Bác đến “ứa nước mắt”. Bài thơ có lối diễn đạt chân chất, mộc mạc đậm chất Nam Bộ. Ba dòng cuối bài thơ mở đầu bằng phép láy “muốn làm” thể hiện ước nguyện, tấm lòng khao khát của nhà thơ trước khát vọng tha thiết được hoá thân vào cảnh vật bên lăng Bác: “muốn làm con chim hót .”, “muốn kết thành bông hoa thơm” và hơn hết là “muốn làm cây tre trung thành” để hòa vào những “hàng tre” quanh lăng Bác.

Hình ảnh hàng tre ở khổ thơ đầu được lặp lại ở đoạn cuối bài thơ tạo nên một kết cấu đầu đoạn tương ứng, tô đậm thêm hình ảnh tạo ấn tượng sâu sắc và mạch cảm xúc được trọn vẹn.

Đoạn thơ có giọng điệu phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, vừa đau xót, vừa tự hào. Với thể thơ tám chữ xen lẫn bảy, chín chữ. Nhịp thơ chủ yếu là chậm rãi, thể hiện sự trang trọng, thành kính và cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ thơ cuối nhịp điệu nhanh hơn, phù hợp với sắc thái ước vọng. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp giữa hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ – tượng trưng như “Mặt trời trong lăng”, “tràng hoa”, “vầng trăng”, “trời xanh”… vừa quen thuộc, gần gũi với hình ảnh thực, vừa có ý nghĩa khái niệm sâu sắc. tình cảm, tình cảm của cả dân tộc đối với vị lãnh tụ kính yêu.

Viếng lăng Bác đã để lại cho người đọc những tình cảm sâu sắc, tha thiết. Bằng những ẩn dụ đặc sắc và nghệ thuật tu từ độc đáo, Viễn Phương đã thể hiện một hồn thơ rất riêng. Qua bài thơ, Viễn Phương đã thay mặt nhân dân miền Nam nói riêng và nhân dân cả nước nói chung kính dâng Bác với tình cảm chân thành và lòng tôn kính thiêng liêng. Bài thơ sẽ còn sống mãi trong lòng bạn đọc, nhắc nhở các thế hệ nối tiếp về thành quả chói lọi của cách mạng dân tộc để sống sao cho xứng đáng với sự hy sinh của con người vĩ đại và giản dị – Chủ tịch Hồ Chí Minh. Minh, người đã sống cả đời:

Chỉ cần quên đi bản thân cho tất cả mọi thứ

Như dòng sông chảy phù sa

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 10

Bác Hồ – vị lãnh tụ vĩ đại, vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam. Thực hiện tâm nguyện và sự nghiệp cả đời – sự nghiệp cứu nước, năm 1946 Bác Hồ đã ra đi mãi mãi. Bác ra đi trong niềm tiếc thương của hàng nghìn người dân Việt Nam:

“Trong những ngày qua, thật đau đớn khi nói lời tạm biệt

Đời đầy nước mắt, trời mưa…”

Tiếng khóc nghẹn ngào ấy vẫn còn rền rĩ, đau đớn cho đến 7 năm sau, còn vang vọng trong những vần thơ của Viễn Phương. Sau buổi viếng lăng Bác, với niềm tiếc thương khôn nguôi và lòng thành kính thiêng liêng, Viễn Phương đã sáng tác bài thơ Viếng Lăng Bác.

Mở đầu bài thơ là cảm xúc bất ngờ xen lẫn lo lắng của tác giả:

“Tôi vào Nam viếng lăng Bác

Nhìn trong sương hàng tre

Ồ! Hàng tre xanh Việt Nam

Giông bão vẫn đứng xếp hàng”

Nhà thơ sử dụng đại từ “con-Bác” để thể hiện tình cảm gần gũi, thân thiết và tình cảm sâu nặng đối với Bác. Bác Hồ là vị cha già của dân tộc, hàng triệu người Việt Nam đều là con của Bác. Người đem ánh sáng che chở, bao bọc dân tộc. Giờ phút này, sau bao nhiêu năm, em đã về với lăng Bác, về trong vòng tay Bác để nhìn hình hài thân yêu ấy. Miền Nam gợi khoảng cách địa lý nói lên một tình cảm đặc biệt. Trong những năm tháng chiến đấu gian khổ, Bác Hồ luôn dõi theo, quan tâm đến đời sống của đồng bào miền Nam. Trong Bác luôn có một khát vọng cháy bỏng là đất nước thống nhất, Bắc Nam sum họp để Bác về thăm những người con của quê cha đất tổ. Trái tim Bác và trái tim miền Nam hòa làm một. Miền Nam luôn mong nhớ Bác Hồ da diết, da diết. Tình yêu ấy thiêng liêng, sâu nặng, ngọt ngào như tình mẹ:

“Ở cuối Nam Cực

Trong màu xanh của rừng ngập mặn

Giữa tiếng sóng nước rì rào

Người quê tôi theo cách riêng của họ

Xây dựng một ngôi đền

Thờ Bác kính yêu”

Chính tình yêu thương dạt dào ấy đã thôi thúc người con vượt vạn dặm ra Bắc viếng lăng Bác. Nhà thơ đã sử dụng cách nói tránh “thăm hỏi” để kìm nén những cảm xúc đau xót đang trào dâng trong lòng. Hình ảnh đầu tiên ghi lại hành trình của tác giả là hàng tre. Hàng tre xanh vươn mình ẩn hiện trong sương mờ. Khi còn sống, ông luôn mang trong mình tình yêu thiên nhiên cháy bỏng, sống và hòa mình với thiên nhiên cho đến khi ông nằm xuống, thiên nhiên vẫn ở bên ông. Hình ảnh hàng tre giản dị, gần gũi, mộc mạc như chính con người Bác Hồ, cuộc sống của Bác cũng mộc mạc, giản dị. Cây tre còn là biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam – kiên cường, vững vàng, bất khuất. Tre gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân ta, tre lao động sản xuất, tre tham gia chiến trường, tre giữ làng, giữ nước, giữ nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Dù mưa gió, bão táp, tre vẫn đứng cùng dân tộc bảo vệ đất nước. Những hàng tre bạt ngàn, xanh mướt, thẳng tắp vươn dài bên lăng Bác như chính sự hiện diện của những người con đất Việt quây quần bên Bác, vươn mình đưa đất nước phát triển, hội nhập quốc tế. Chứng kiến ​​hình ảnh đẹp nên thơ ấy, Viễn Phương không khỏi thổn thức, vô cùng xúc động: “Ôi”. Chữ O vang lên với bao cảm xúc, nỗi nhớ và niềm tự hào thiêng liêng.

Và rồi theo chân tác giả, nhà thơ vào lăng Bác. Nhìn Bác thấy cha già hiền từ nằm đó trong lòng nhà thơ dấy lên bao liên tưởng:

“Ngày ngày nắng qua lăng

Thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên”

Câu thơ có hai hình ảnh ông mặt trời. Mặt trời ở câu thơ đầu là mặt trời tự nhiên. Hình ảnh ông mặt trời ở câu thơ thứ hai là hình ảnh ẩn dụ về Bác Hồ. Bác như vầng trăng sáng của dân tộc Việt Nam, Bác là trái tim ấm áp, là trung tâm của núi rừng Đại Việt. Dù Bác đã đi xa nhưng vẻ đẹp trí tuệ, nhân cách của Người vẫn ngời ngời, bao la, chói lọi khắp muôn nơi. Sau đó:

“Ngày qua ngày dòng người bước đi trong tình yêu

Kết thúc bảy mươi chín mùa xuân cúng dường”

Cả cuộc đời Bác Hồ đã cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Bảy mươi chín tuổi là bảy mươi chín năm Bác cống hiến cho dân tộc, bảy mươi chín mùa xuân rực rỡ. Hàng triệu trái tim người dân Việt Nam đã về đây dâng lên Bác những bó hoa tươi thắm với lòng biết ơn và kính trọng vô hạn.

Cảm xúc của Viễn Phương dâng trào khi nhìn hình ảnh Bác Hồ:

“Tôi nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa vầng trăng sáng dịu dàng

Ý thơ nói lên con người Bác hiền hòa, thanh thản. Bác ra đi khi đã thực hiện được tâm nguyện cả đời của Bác là độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Bác về với giấc ngủ vĩnh hằng là về với đất mẹ thân yêu. Trong câu thơ còn có hình ảnh “trăng”. Vầng trăng là người bạn thân thiết, đồng hành cùng Bác Hồ. Vầng trăng của cách mạng, vầng trăng của thi ca và giờ đây vầng trăng ấy vẫn ở bên em. Giấc ngủ vĩnh hằng của Người thật yên bình, giản dị, lãng mạn và đẹp đẽ, đúng như những phẩm chất đáng quý của Người.

Dẫu vậy, nhà thơ vẫn không khỏi đau đáu:

“Dẫu biết rằng bầu trời mãi xanh

Mà sao nghe nhói trong tim”

Vẫn biết rằng sinh, lão, bệnh, tử là quy luật của tự nhiên và Bác Hồ cũng không ngoại lệ. “Bầu trời xanh” tượng trưng cho sự bất tử. Bác đã đi xa nhưng hình ảnh của Bác sẽ mãi sống mãi trong lòng người dân Việt Nam. Bác Hồ luôn dõi theo và đồng hành cùng nhân dân ta trên mọi chặng đường phát triển. Dù ý thức và an ủi như vậy, nhưng trái tim nhà thơ vẫn nhói lên một niềm đau và sự tiếc nuối không nguôi.

Và chuyện gì đến cũng phải đến. Đã đến lúc nhà thơ phải rời miền Bắc, rời lăng Bác. Những giọt nước mắt tràn mi diễn tả bao cảm xúc trong lòng tác giả:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Bạn muốn làm cho bông hoa nở ở đâu?

Muốn làm cho nơi này mùi vị tre…”

Nhà thơ muốn được hóa thành chim, thành hoa thơm thành trúc, thành những đồ vật gần gũi dâng lên Bác, làm đẹp thêm nơi Bác nằm, mang những gì tinh túy nhất của Người. bảo vệ giấc ngủ bình yên của Bác. Những điều gần gũi, giản dị nhưng lại là khát vọng mãnh liệt, là tình cảm lớn lao, sâu nặng mà nhà thơ dành cho Bác Hồ. Những giây phút rời lăng Bác là những giây phút lưu luyến nhất, ấm áp nhất, dạt dào cảm xúc nhất. Kết thúc bài thơ là dấu … cũng như nỗi lòng riêng của tác giả còn quá nhiều điều muốn giãi bày, nỗi niềm trai dài.

Bài thơ là tiếng nói của trái tim tác giả, hay cũng chính là tiếng nói của người dân Nam Bộ, của người dân Việt Nam. Tấm lòng kính yêu, kính trọng thiêng liêng đối với vị cha già dân tộc ấy luôn sáng ngời, cháy bỏng và nhiệt thành trong trái tim mỗi người con Việt Nam thân yêu hôm nay và mãi mãi.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 11

Bác nhớ miền Nam, nhớ nhà

Miền Nam nhớ Bác nhớ cha

Những mong đợi, mong mỏi của đồng bào được Bác đưa vào thăm cũng không còn! Anh đã mãi mãi ra đi để lại bao tiếc thương trong lòng mỗi người con Nam Bộ. Viễn Phương – nhà thơ trẻ miền Nam – vinh dự được vào lăng viếng Bác. Tác giả đã thay mặt nhân dân Nam Bộ bày tỏ tình cảm của mình khi đứng trước vị cha già của dân tộc. Xúc động đến tận đáy lòng, Viễn Phương đã viết bài “Viếng lăng Bác”. Đây là bài thơ đầu tiên khơi gợi những cảm xúc sâu sắc nhất trong tôi.

Cảm xúc đầu tiên ta cảm nhận được từ bài thơ có lẽ là bởi bài thơ đã thể hiện được tình cảm chân thành, giản dị của người dân Nam Bộ muốn nhắn gửi, nhờ Viễn Phương nói lên niềm mong mỏi, sự mong chờ Bác vào thăm.

Nghẹn ngào xúc động, mở đầu bài thơ, tác giả viết:

Em vào Nam viếng lăng Bác

Nhìn trong sương hàng tre

Ôi hàng tre! màu xanh việt nam

Tình cảm của nhà thơ rất chân thành và cũng rất gần gũi. Đối với người lính miền Nam, được vào thăm lăng Bác là một vinh dự lớn. Vì vậy, tình cảm của tác giả dành cho Bác rất chân thành. Lời thơ thật ấm áp tình người với cách gọi thân mật “con trai”. Vì tất cả mọi người đều là những người con trung thành của Bác. Tác giả khéo léo lựa chọn hình ảnh hàng tre, tạo nên hình ảnh quê hương quen thuộc để mở rộng bài thơ hơn. Nhắc đến hình ảnh cây tre ta nghĩ đến đất nước, đến con người Việt Nam với nhiều đức tính cao quý: bất khuất, kiên cường, đầy ý chí quật cường.

Theo chân đoàn người tác giả vào viếng lăng Bác, nhà thơ thấy:

Ngày qua ngày nắng qua lăng

Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên

“Mặt trời” ngày ngày đi qua trên lăng là mặt trời của thiên nhiên, nguồn sáng lớn nhất, rực rỡ nhất. nhưng mặt trời trong lăng còn nhận ra một mặt trời “rất đỏ” khác. Một hình ảnh nhân hóa chứa đựng biết bao niềm kính yêu đối với Bác Hồ vĩ đại. Bằng những hình ảnh ẩn dụ, nhà thơ đã ví Bác như “mặt trời”, Bác là mặt trời cách mạng đỏ rực sẽ mãi soi đường cho chúng ta đi với sự nghiệp cách mạng cao cả của Bác. Đây là nghệ thuật sáng tạo của tác giả. Độc đáo hơn, nhà thơ còn tạo ra một hình ảnh khác để gợi về Bác:

Ngày qua ngày dòng người bước đi trong tình yêu

Hết bảy mươi chín mùa xuân cúng dường

Hình ảnh người đi đưa tang, đội vòng hoa không chỉ là hình ảnh hiện thực so sánh dòng người xếp hàng vào lăng như những vòng hoa dài bất tận. nó còn có ý nghĩa tượng trưng: cuộc đời họ đã đơm hoa kết trái dưới ánh sáng của Bác Hồ. Những bông hoa tươi đang đến cho tốt nhất. “dâng bảy chín mùa xuân”, hay ẩn dụ về một người đã sống bảy mươi chín kiếp người mà vui như ngày xuân. Ánh sáng nơi Bác được nhà thơ miêu tả như vầng trăng dịu hiền:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa vầng trăng sáng dịu dàng

Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim

Ánh sáng của ngọn đèn mờ ảo trong lăng gợi cho nhà thơ sự liên tưởng thú vị với “ánh trăng”. Tác giả đã thể hiện sự hiểu biết của mình về Bác qua sự liên tưởng kì lạ đó. Bởi trăng và Bác đã từng vào thơ Bác trong tù, ngoài chiến trường, nay trăng cũng đến an ủi Bác. Với hình ảnh “vầng trăng sáng hiền” nhà thơ còn muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để so sánh với Bác Hồ. Đó là chú của chúng tôi. “Mặt trời”, “mặt trăng”, “trời xanh” là cái bao la của vũ trụ được nhà thơ so sánh với cái bao la của Bác Hồ kính yêu. Đó cũng là biểu hiện của sự cao cả, sáng ngời của người với sự nghiệp Bác Hồ. Biết rằng Bác Hồ vẫn sống trong sự nghiệp cách mạng và lòng dân như bầu trời xanh muôn thuở trên cao. Nhưng nhà thơ vẫn không khỏi nhói đau trong lòng khi đứng trước thân phận người. “Mà sao nghe nhói trong tim”. Nỗi đau ấy như ngàn mũi kim đâm vào trái tim đang thổn thức của tác giả. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.

Đứng trong lăng Bác nhưng khi nghĩ đến giờ phút phải xa Bác, Viễn Phương lại thấy lòng nao nao, không muốn dừng lại. Cảm xúc của nhà thơ trong thời gian này luôn sâu nặng, đau đáu nhưng cho đến giờ phút này. Viễn Phương không kìm được nữa, để tình cảm của mình tuôn trào theo dòng nước mắt, dâng cao và tha thiết nhất “Ngày mai vào Nam nước mắt rưng rưng”. Chỉ nghĩ đến việc trở lại miền Nam, tác giả cũng “rơi nước mắt” với nỗi nhớ khi chia tay vì không nỡ rời xa nơi Bác yên nghỉ. Ở đoạn thơ này, tác giả không sử dụng nghệ thuật gì, chỉ là những từ ngữ giản dị, một tình yêu sâu nặng từ trái tim nhưng lại khiến ta xúc động. Tác giả thay mặt nhân dân Nam Bộ bày tỏ lòng chia buồn vô hạn với vị cha già dân tộc. Câu văn giản dị ấy khiến người đọc hiểu và đồng cảm với nỗi lòng của Viễn Phương, bởi những lời ấy xuất phát từ hàng triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau như tác giả. Ở gần bạn dù chỉ trong giây lát nhưng tác giả không bao giờ muốn xa bạn bởi trong anh ấm áp và bao la quá. Mong ước chân thành của tác giả cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa một lần được gặp Bác Hồ.

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?

Bạn muốn làm cho bông hoa nở ở đâu?

Muốn làm nơi này vị tre

Điệp ngữ “muốn làm” được lặp lại nhiều lần trong bài thơ thể hiện mong ước của tác giả. Hình ảnh cây tre hiện lên khép lại bài thơ một cách tài tình. Lời chúc chân thành của nhà thơ. Tác giả muốn là con chim hót ngàn bài cho Bác yên giấc, là hoa để tỏa hương thơm ngào ngạt, muốn là một loài hoa khác tô điểm thêm cho nơi Bác yên nghỉ. Và vui nhất là được làm cây tre trung thành đứng bên Bác canh giấc ngủ cho Người. Cánh hoa ấy, con chim ấy, rặng tre ấy mãi mãi giữ cho anh bình yên. Viễn Phương bày tỏ mong muốn của mình cũng như mong muốn tất cả chúng ta đều muốn được ở gần Bác để lớn lên một chút

Tham Khảo Thêm:  ai đã đặt tên cho dòng sông

Tôi ở bên anh ấy, anh ấy tỏa sáng trong tôi

Tôi chợt lớn lên bên Ngài một chút

Đó là chú của chúng tôi. Anh là người giàu tình yêu thương, giàu đức hi sinh, cuộc sống của anh rất bình dị. Tổ quốc mất Bác như mất đi người cha vĩ đại, người cha luôn dành cho nhân loại tình yêu thương vô bờ bến.

Bài thơ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, ít ai đọc bài thơ mà không thấy xúc động trong lòng. Bằng việc sử dụng khéo léo các biện pháp tu từ một cách sáng tạo, tác giả đã thể hiện được tình cảm dịu dàng mà rất giản dị, chân thành của mình đối với Bác Hồ. Nhà thơ gửi gắm tình cảm của mình đến người đọc bởi tình cảm của tác giả cũng chính là tình cảm của người dân nam bộ nói riêng và cả dân tộc nói chung.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn cảm hứng của biết bao nhà thơ nổi tiếng và trong số rất nhiều tên tuổi đó, Viễn Phương với bài thơ “Viếng lăng Bác” vẫn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Đoạn thơ là những tình cảm chân thành nhất, sâu sắc nhất của tác giả và đồng bào miền Nam đối với người cha kính yêu vĩ đại của dân tộc.

Viễn Phương viết bài thơ “Viếng lăng Bác” vào năm 1976, một năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất và cũng là thời điểm khánh thành lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhà thơ đã có dịp ra Bắc viếng lăng Bác với một trạng thái xúc động vô hạn đã thôi thúc tác giả sáng tác bài thơ đầy cảm xúc này.

Ngay khổ thơ đầu tiên, một khung cảnh bên ngoài lăng đã được tác giả giới thiệu một cách rất tự nhiên và chân thực:

Em vào Nam viếng lăng Bác

Nhìn trong sương hàng tre

Ồ! Hàng tre xanh Việt Nam

Mưa bão rơi thẳng hàng hàng.

Trước lăng Bác là tâm trạng xúc động, là giọng nói của một người con miền Nam sau bao ngày mong ngóng được ra Bắc viếng lăng Bác. Ngay câu thơ đầu: “Em vào Nam viếng lăng Bác” như một lời thông báo, một lời giới thiệu giản dị nhưng chan chứa tình cảm.

Với nhan đề “Con – Bác”, người đọc như cảm nhận được sự gần gũi, thân thiết và kính trọng của một người con đã xa xứ lâu ngày nay trở về gặp người cha kính yêu của dân tộc. Qua đó ta cũng thấy giữa người lãnh đạo và quần chúng không có khoảng cách mà có sự gắn bó mật thiết với nhau.

Cụm từ “người con miền Nam” chứa đựng cả một nỗi đau mất mát và niềm tự hào lớn lao. Miền Nam gian khổ mà hào hùng, bao năm chiến đấu, hy sinh để đến ngày thống nhất đất nước, nhưng Bác Hồ không chia sẻ niềm vui ấy với hàng triệu trái tim của cả nước. Nỗi đau ấy dường như được xoa dịu phần nào với cách sử dụng từ láy thay thế một cách tinh tế của nhà thơ. Từ “viếng” thay cho từ “viếng” như làm dịu đi nỗi đau mất Bác Hồ đang ẩn hiện trong lòng mỗi người dân Việt Nam: Bác Hồ còn sống.

Sau tâm trạng ấy, một khung cảnh hàng tre ngút ngàn hiện ra trước mắt nhà thơ khi đứng trước lăng. Từ xa xưa, hình ảnh cây tre đã trở nên quen thuộc, gần gũi với mỗi vùng quê, nay được nhân hóa như hình ảnh con người Việt Nam với nhiều đức tính tốt đẹp: kiên trì, kiên cường, dũng cảm trước mọi người. mọi khó khăn thử thách. Hàng tre mà Tổ quốc – đại diện cho dân tộc luôn trung thành gắn bó, canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người.

Với câu cảm thán “Ồ!” được nhà thơ sử dụng vừa thể hiện niềm xúc động vừa tự hào trước hình ảnh hàng tre. Có thể nói, hình ảnh hàng tre chính là khúc dạo đầu cho cảm xúc của nhà thơ khi về Lăng Bác.

Tiếp nối cảm xúc ấy, là cảm xúc của tác giả trước hình ảnh mọi người vào lăng viếng Bác:

Ngày qua ngày nắng qua lăng

Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên

Với tấm lòng biết ơn, ngưỡng mộ và kính trọng vị lãnh tụ của dân tộc. Tác giả đã mượn hình ảnh “mặt trời” để tượng trưng cho hình ảnh Bác Hồ trong trái tim hàng triệu trái tim Việt Nam. Thật là một hình ảnh đẹp và sáng tạo. Nếu ở trên là mặt trời thiên nhiên soi sáng không gian và đem lại sự sống cho muôn loài thì trong câu thơ “mặt trời” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ Bác Hồ.

Bác là nhà cách mạng tài ba đã đem lại ánh sáng cách mạng, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Với chi tiết “rất đỏ” càng làm cho câu thơ thêm ấn tượng, cho ta thấy một trái tim nồng nàn luôn hi sinh vì nước, vì dân và một trái tim nồng nhiệt luôn dành những tình cảm thân thương nhất. cho đồng bào cả nước. Màu đỏ ấy như xua đi nỗi đau mất mát, sưởi ấm cảnh đau thương.

Hòa vào dòng người vào viếng lăng Bác, nhà thơ trở về và xúc động:

Ngày qua ngày dòng người bước đi trong tình yêu

Hết bảy mươi chín mùa xuân cúng dường.

Với điệp ngữ “ngày qua ngày” vừa gợi ấn tượng về sự trường tồn, quy luật của dòng người về viếng lăng Bác cũng như quy luật tự nhiên của tạo hóa. Vừa gợi lên lòng người không khỏi bồi hồi nhớ về Bác. Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh thực, miêu tả dòng người chầm chậm, thành kính tiến vào lăng viếng Bác trong niềm xúc động, tiếc thương và biết ơn vô hạn.

Hình ảnh đó được Viễn Phương ví như vòng hoa dâng lên Bác bởi cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng cách mạng của Bác. Thật là một hình ảnh đẹp và nhân văn. Tiếp nối cảm xúc ấy, là cảm xúc, sự dồn nén của nhà thơ khi đứng trước di hài Bác:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa vầng trăng sáng dịu dàng

Giấc ngủ của Bác là giấc ngủ giữa trăng, một giấc ngủ bình thường chứ không phải giấc ngủ vĩnh hằng. Tôi có cảm giác như Bác vẫn ở đó, Bác vẫn ở cạnh chúng tôi. Đây là giấc ngủ “bình yên” trong tình yêu của con người và vạn vật. Đến đây ta thấy ngòi bút của ông rất độc đáo, sáng tạo với hình ảnh vũ trụ để so sánh với Bác Hồ. Hình ảnh “vầng trăng” gợi cho ta vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, cao thượng của Người.

Cảm giác tự hào và ngưỡng mộ dường như lắng xuống để nhường chỗ cho nỗi đau dâng trào không thể kiểm soát:

Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim.

Dù tâm trí chúng tôi vẫn nghĩ rằng Bác vẫn còn sống với chúng tôi nhưng sao lòng chúng tôi vẫn đau như nghẹn lại, không nói nên lời khi nhận ra một sự thật đau xót: Bác đã ra đi mãi mãi. Đó là nỗi đau vô hạn, đáng thương. Bài thơ như tiếng khóc nghẹn ngào của người con quá cố về bên di hài cha. Và tiếp tục, hình ảnh vũ trụ: “trời xanh” một lần nữa được nhà thơ nhắc đến như một cái gì vĩ đại, cao cả, trường tồn, vĩnh cửu như để ngợi ca tầm vóc vĩ đại đồng thời để tỏ lòng kính trọng. của nhà thơ đối với Bác.

Nếu như ở trên, nỗi đau ấy chỉ âm ỉ, nhức nhối thì đến khổ thơ cuối, khi sắp trở về phương Nam, nhà thơ bỗng trào dâng cảm xúc. Tiếng than khóc kéo dài vỡ òa trong tiếng khóc nghẹn ngào:

Ngày mai về phương Nam, tôi rưng rưng nước mắt

Mai về miền Nam nhớ Bác không nguôi

Hai câu thơ như một lời chia tay, từ “ngọt ngào” diễn tả cảm xúc mãnh liệt, nỗi nhớ nhung da diết, nhớ nhung không muốn chia xa. Đó là nỗi đau không chỉ của riêng tác giả mà còn của hàng triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau mất Bác. Tình cảm ấy, cảm xúc ấy đã lên đến đỉnh điểm tột cùng, để rồi nhà thơ có ý muốn hoá thân thành “con chim hót quanh lăng”, là “hoa tỏa hương thơm”, thành “cây trúc vừa”. chữ hiếu” để sống mãi bên Bác, đền đáp công ơn Bác Hồ đã mang lại cho nhân loại:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?

Bạn muốn trở thành bông hoa thơm ở đâu?

Muốn làm nơi này vị tre .

Như chúng ta đã biết, ở đầu bài thơ, hình ảnh cây tre được nhà thơ nhắc đến. Và cuối bài thơ, “cây tre” cũng được nhà thơ nhắc đến. Nhưng, lần này cây tre đã mang một ý nghĩa mới. Đó không còn là cây tre với ý nghĩa tầm thường mà đó là tình cảm thủy chung, nguyện ước tiếp tục đi theo con đường, lý tưởng cách mạng mà Bác Hồ đã chọn cho dân tộc.

Bài thơ khép lại trong khoảng cách về không gian, nhưng lại tạo nên sự gần gũi trong ý chí và tình cảm. Bằng tất cả tình yêu chân thành, Viễn Phương đã thể hiện hết những cung bậc cảm xúc của mình qua những vần thơ. Và đó cũng chính là tình cảm kính yêu của mỗi người dân miền Nam nói riêng và của cả nhân loại nói chung đối với Bác Hồ.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu số 13

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử kính yêu nhất của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20. Người đã để lại cho đời hình ảnh người cha già hiền từ, người Bác kính yêu, là hiện thân của vẻ đẹp và sức mạnh của dân tộc. Lăng Bác trở thành nơi lưu giữ hình bóng của Bác trong cuộc đời, là nơi ngưỡng mộ kính trọng của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế. Nhiều nhà thơ đã làm thơ về Bác, về lăng Bác. Bài “Viếng mộ Bác” của Bác Viễn Phương là một bài thơ ngắn đầy cảm xúc, nói lên tấm lòng của người dân Nam Bộ đối với Bác.

Mở đầu bài thơ, tác giả tự giới thiệu:

Em vào Nam viếng lăng Bác

Lời thơ giản dị chứa đựng rất nhiều cảm xúc. Trong suốt cuộc đời, Người luôn nghĩ về miền Nam. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:

Bác nhớ miền Nam, nhớ nhà

Miền Nam nhớ Bác nhớ Cha

(Chú)

Ca từ của bài thơ đúng là lời của người con miền Nam viếng lăng Bác, nơi yên nghỉ của vị cha già dân tộc. Cảm xúc trong bài thực sự là tình cảm của người con xa xứ, nhưng nỗi nhớ da diết như chỉ chờ gặp lại người thân lại trào dâng, thổn thức.

Từ xa, nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre bao quanh lăng đã vô cùng xúc động:

Nhìn trong sương hàng tre

Ôi tre xanh xanh Việt Nam

Mưa bão rơi thẳng hàng hàng.

Chắc hẳn nhà thơ đã đến từ rất sớm để xếp hàng vào viếng, khi sương sớm còn phủ trên lăng. Men theo con đường vòng dẫn vào lăng nổi lên những hàng tre. Bát trúc bát sương. Nhà thơ bắt gặp một hình ảnh quen thuộc đã in sâu vào tiềm thức bao năm nay: “Hàng tre xanh Việt Nam/Trời mưa bão đứng xếp hàng”. Một cảm giác vừa thân quen, vừa thương, vừa tự hào. Quen thuộc vì người Việt Nam nào mà không biết cây tre. Xót thương cho ngọn tre phải chịu mưa bão, và tự hào rằng tre vẫn thẳng hàng, không nghiêng ngả. Từ sương gắn liền với bão, mưa cũng rất tự nhiên. Nhắc đến cây tre là lẽ đương nhiên, rồi nghĩ đến Bác Hồ, bởi từ lâu “cây tre”, “Việt Nam”, “Hồ Chí Minh” là những từ có nội hàm.

Khổ thơ thứ hai nói về cảm xúc của dòng người xếp hàng vào lăng. Đó hẳn là một nhóm người rất dài và tốc độ rất chậm. Ở khổ thơ trên, cảnh vật còn bao phủ bởi sương mù, lúc này mặt trời đã lên cao trên đầu. Nắng trên lăng gợi một sự liên tưởng mới:

Ngày qua ngày nắng qua lăng

Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên

So sánh Bác Hồ với mặt trời là hình ảnh quen thuộc, nhưng so sánh mặt trời trên lăng và mặt trời trong lăng là một sáng tạo mới, khác lạ, chưa từng có. Mặt trời “đỏ lắm” gợi cho ta tấm lòng, trái tim nồng nàn, chân thành, trái tim yêu đất nước, yêu đồng bào.

Nhìn dòng người đến viếng, nhà thơ nghĩ đến vòng hoa:

Ngày qua ngày dòng người bước đi trong tình yêu

Hết bảy mươi chín mùa xuân cúng dường…

Tràng hoa là một chuỗi hoa quấn thành vòng tròn. Từng đoàn khách đi từ sau lăng, sang bên lăng, vòng ra trước lăng rồi lại vòng ra trước lăng, quả nhiên tạo thành một vòng tròn, khiến nhà thơ liên tưởng đến vòng hoa. Vì con người là những bông hoa của đất, là những con người được Bác chăm sóc. Người ta hình như không phải thăm một người đã khuất, thăm một xác mà thăm một cuộc đời bảy mươi chín suối đã đơm hoa kết trái. Ở đây, tác giả không chỉ liên tưởng sâu xa mà còn dùng từ ngữ tinh tế, đầy tình cảm, trân trọng.

Điệp từ “ngày ngày” được lặp lại hai lần gây cảm giác về một thời gian dài vô tận, vĩnh hằng, không bao giờ cạn, như lòng người không nguôi nỗi nhớ Bác.

Khổ thơ thứ ba nói về cảm giác vào lăng. Đây là chỗ ngồi của sự im lặng trang trọng của sự yên nghỉ vĩnh cửu. Bài thơ được viết rất hiện thực và giàu chất thơ:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa vầng trăng sáng dịu dàng

Khung cảnh yên bình, tĩnh lặng gợi giấc ngủ đêm êm đềm dưới ánh trăng sáng dịu dàng. Nhà thơ một mặt không muốn có cảm giác đây là giấc ngủ vĩnh hằng, ngủ giữa ban ngày, nhưng mặt khác lại không khỏi xót xa khi thấy người nằm đó đã ra đi mãi mãi:

Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim

Dẫu biết rằng Bác Hồ sống mãi như bầu trời vẫn không sao che giấu được một sự thật mất mát khiến lòng tôi quặn thắt. Lời thơ như một tiếng khóc nghẹn ngào. Khổ thơ cuối là cảm nghĩ trước khi ra đi:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?

Bạn muốn làm cho bông hoa nở ở đâu?

Muốn làm nơi này vị tre

Nghĩ đến miền Nam ngày mai, lòng tôi rưng rưng nước mắt. Không phải nước mắt, nước mắt mà tuôn trào, một cảm xúc mãnh liệt. Lòng xót xa như dồn nén trong tim, làm nảy sinh bao khát khao. Ước mong được làm con chim hót quanh lăng Bác, để lại chút niềm vui và nghĩa hiệp với một người đã hy sinh cả gia đình và tình riêng cho đất nước. Ước muốn làm một bông hoa tỏa hương thơm quanh lăng, một mùi hương như thật như “đâu đâu”, thoang thoảng. Ước làm cây tre trung thành quanh lăng. Tất cả nguyện vọng đều quy tụ ở một điểm: mong muốn được mãi mãi ở gần Bác, phải được vui đùa, vỗ về, xoa dịu cơn lạnh của người đã hy sinh cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân. một người suốt đời dành trọn tình thương yêu cho mọi tầng lớp nhân dân và đặc biệt là với bà con miền Nam ruột thịt.

Bài thơ tả một ngày vào lăng Bác, từ sáng đến trưa, đến chiều. Nhưng thời gian trong ký ức là thời gian vĩnh hằng của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ khổ nào, khổ nào cũng trào dâng một nỗi nhớ da diết và niềm tiếc thương vô hạn. Bốn khổ thơ, mỗi khổ thơ đầy ẩn dụ, hình ảnh đẹp, trang nhã thể hiện sự thăng hoa của tình cảm từ đời thường đến cao siêu. Tình cảm kính yêu Bác Hồ chỉ có thể là thứ tình cảm thăng hoa nâng tầm tâm hồn con người. Viếng Lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thơ văn viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu số 14

Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Ông ra đi năm 1969, để lại biết bao nỗi nhớ nhung, tiếc thương cho đất nước. Có rất nhiều nhà thơ đã làm thơ tưởng nhớ Bác Hồ và bài “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một trong những bài thơ hay nhất. Hãy cùng đi vào bài thơ để cảm nhận tình cảm đó.

Em vào Nam viếng lăng Bác

Muốn làm nơi này vị tre

Năm 1976, sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, Lăng Bác được khánh thành. Nhà thơ Viễn Phương từ miền Nam ra viếng lăng Bác. Cảm xúc dâng trào, nhà thơ đã viết bài thơ như một lời tỏ tình chân thành của hàng triệu người con miền Nam với Bác Hồ. Đây là một bài thơ độc đáo, giàu ý nghĩa, gây xúc động cho người đọc.

Hai khổ thơ đầu là cảm xúc ban đầu của nhà thơ khi lần đầu tiên được vào viếng lăng Bác: một chút tự hào, vui sướng, xúc động khi sắp được ở gần vị Cha già kính yêu của dân tộc. Bằng những hình ảnh ẩn dụ giàu sức gợi, ngôn ngữ giản dị mà súc tích, tinh tế, bài thơ đã để lại cho người đọc những cảm xúc sâu sắc.

Hai khổ thơ cuối bài thơ như những nốt nhạc trầm bổng, du dương, da diết như tình cảm tha thiết của nhà thơ đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng những từ ngữ ẩn dụ độc đáo, ngôn từ giản dị mà giàu sức gợi, bài thơ đã gợi lên trong lòng người đọc những rung động sâu sắc và đáng quý.

Bài thơ được chia theo bố cục trình tự thời gian, khổ đầu nói về cảm xúc của tác giả khi nhìn thấy Lăng Bác từ xa:

Em vào Nam viếng lăng Bác

Câu thơ đầu ngắn gọn nhưng là lời bộc bạch chân thành của nhà thơ cũng như hàng triệu người con Nam Bộ. Giọng “con” ấm áp, gần gũi, thể hiện sự kính trọng vô cùng đối với Bác. Bác rất gần gũi với nhân dân, như một vị cha già của dân tộc. “Ta ở phương Nam” – những từ ấy chứa đựng một cảm giác đau xót và tự hào. Miền Nam gian khổ mà anh dũng, Miền Nam đi đầu, Miền Nam làm Tổ quốc, Miền Nam vừa đánh tan giặc hung bạo, về với đại gia đình Việt Nam Bác ơi! Nhà thơ ao ước được gặp Bác một lần sau ngày đất nước giải phóng, nhưng tiếc thay Bác đã ra đi. Vì vậy, từ “viếng” được nhà thơ thay bằng từ “viếng” để xoa dịu nỗi đau cũng như thể hiện niềm tin Bác vẫn còn sống.

Nhìn trong sương hàng tre

Ôi tre xanh xanh Việt Nam

Mưa bão rơi thẳng hàng

Đập vào mắt nhà thơ là hình ảnh hàng tre xanh trước lăng Bác. Cây tre – biểu tượng của dân tộc Việt Nam bất khuất, kiên cường mà giản dị, cao cả – đã để lại dấu ấn đậm nét trong lòng tác giả trước khi vào lăng Bác. Hàng tre bao la – Hàng tre xanh xanh – Hàng tre Việt Nam: hàng tre bao đời nay như một dấu son đặc biệt của dân tộc. Hàng tre che mát bao đời đời, hàng tre mang bao phẩm chất của người dân Tổ quốc ta: dẻo dai, đoàn kết, bất khuất, kiên cường. Ở Bác có tất cả những gì mà dân tộc Việt Nam từng có, cùng một màu xanh tươi của sự sống, cùng một sự kiên cường “đứng thẳng hàng” trong cơn “mưa dầm dề” ấy. Dân tộc ta thực sự có một sức sống mãnh liệt, dù trước những thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên và lịch sử đến đâu, vẫn kiên cường chống chọi, vẫn cố gắng đứng thẳng, kiên quyết không chịu khuất phục. Hàng tre đứng đó, bên lăng Bác như ru giấc ngủ ngàn thu của Bác, gắn bó mãi với Bác như dân tộc Việt Nam còn mãi kính yêu Bác.

Đến gần lăng Bác, xếp hàng vào viếng, tác giả có nhiều cảm xúc mới lạ.

Ngày qua ngày nắng qua lăng

Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên

Hai câu thơ sinh động với nhiều hình ảnh gợi được tạo nên từ hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ song hành với nhau. Một mặt trời đi qua lăng thật là mặt trời của thiên nhiên, của muôn loài, chiếu sáng muôn loài, đem lại sự sống cho thế gian. Từ mặt trời thực đó, một mặt trời ẩn dụ khác hiện ra trong chính màu đỏ bằng lăng. Bác nằm trong lăng với xung quanh đỏ rực như vầng thái dương. Bác Hồ tồn tại mãi trong lòng mỗi người dân Việt Nam như sự tồn tại của một mặt trời có thật. Bác Hồ đã soi đường cho dân tộc ta đi, cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp độc lập dân tộc. Bác đã giúp nhân dân ta thoát khỏi ách nô lệ, trở thành người tự do hạnh phúc như bây giờ. Công lao của Bác đối với dân tộc ta như vầng dương, bao la không kể xiết. Bác là mặt trời. Hình ảnh ẩn dụ mặt trời ở đây không đủ để nói về Bác sao? Không, nếu nói Bác là mặt trời thì phải nhấn mạnh rõ hơn đặc điểm của mặt trời đó: rất đỏ. Mặt trời chiếu sáng trên kia, mặt trời của thiên nhiên, biểu tượng của nguồn nóng, nguồn sáng, nguồn sống ấy, không phải lúc nào cũng nguyên vẹn như vậy, không phải lúc nào cũng ấm áp! Mặt trời đó có thể bị bóng tối lấn át. Nhưng mặt trời Bác Hồ của chúng ta mãi mãi đỏ rực, mãi mãi là nguồn hơi ấm, nguồn ánh sáng soi đường cho người Việt Nam. Hôm nay, trên đường đời có hai mặt trời soi: một mặt trời soi trước mặt, một mặt trời soi tâm hồn… Cũng như mặt trời kia, Bác thuộc về cõi vĩnh hằng. Bác sẽ sống mãi trong lòng mỗi người Việt Nam.

Ngày qua ngày dòng người bước đi trong tình yêu

Hết bảy mươi chín mùa xuân cúng dường…

Cùng với ánh nắng chiếu trên lăng, hàng ngày vẫn có người qua lại lăng. Cụm từ “ngày nào” có nghĩa là nhân dân ta đời đời ghi nhớ công lao to lớn của Bác, mãi mãi như thế. Nhịp thơ chậm rãi, diễn tả đúng tâm trạng khi đứng xếp hàng trước lăng chờ đến lượt vào lăng, bùi ngùi thương nhớ Bác đã khuất. Tuy nhịp thơ chậm rãi như bước chân người đi trong kỉ niệm mà sao câu thơ vẫn không buồn? Phải. Chúng tôi không làm những công việc tưởng niệm thông thường với Bác như một người đã khuất. Dòng người đi qua đây như đang hành trình ca ngợi Bác Hồ quang vinh. Và tràng hoa huy hoàng này không làm bằng những bông hoa tầm thường như tất cả những tràng hoa huy hoàng khác trên thế gian. Tràng hoa này là hình ảnh ẩn dụ của tác giả, đó là những bông hoa thực của cuộc đời, những đàn con mà Bác đã cố công tạo dựng trong suốt bảy mươi chín mùa xuân Bác sống trên đời. Những bông hoa trong vườn Bác nay đã lớn và đơm hoa tỏa hương thơm ngát để dâng lên Bác.

Bên lăng Bác, nhìn Bác nằm đó, nhà thơ lại cố giấu nỗi nức nở:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa vầng trăng sáng dịu dàng

Khung cảnh bên trong lăng rất tĩnh lặng và yên bình. Lúc này trước mặt mọi người chỉ có hình ảnh của Bác. Anh nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bố cậu chết thật à? Không. Tôi chỉ nằm đó ngủ, tôi chỉ ngủ thôi! Bảy mươi chín năm cống hiến cho đất nước, nay đất nước đã hòa bình, Bác phải yên nghỉ. Bao quanh giấc ngủ của Bác là “vầng trăng sáng dịu hiền”. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho những năm tháng làm việc của Bác, luôn có vầng trăng bên cạnh. Từ giữa chốn ngục tù, đến “cảnh đêm” của núi rừng Việt Bắc, rồi “nguyên tiêu”… Tuy nhiên, Bác Hồ không bao giờ rảnh rỗi để ngắm trăng đúng nghĩa. Có lúc “trong tù không rượu không hoa”, có lúc “quân tử bận rộn”. Chỉ đến bây giờ, trong giấc ngủ bình yên, vầng trăng ấy mới thực sự là vầng trăng bình yên để Bác yên giấc và ngắm nhìn. Vầng trăng hiền soi ảnh Bác Hồ. Nhìn Bác nằm ngủ thật yên bình, nhưng có một sự thật, dù đau đớn đến đâu, chúng ta vẫn phải chấp nhận: Bác đã thực sự ra đi mãi mãi.

Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim!

Bầu trời xanh bao la ấy kéo dài đến vô tận, không bao giờ kết thúc. Dù lý trí luôn trấn an rằng Bác vẫn còn sống, vẫn mãi dõi theo Tổ quốc như màu xanh hòa bình trên bầu trời Tổ quốc độc lập, nhưng lòng chúng tôi vẫn đau đáu trước một sự thật đau lòng. Một chữ “dày” của nhà thơ đã nói thay cho chúng ta nỗi đau, nỗi đau vượt lên trên mọi lý trí, mọi lý trí. Bác Hồ mãi mãi có mặt trên từng mảnh đất, từng cây trái, từng yếu tố tạo nên đất nước này. Nhưng khi Bác mất, chúng tôi không còn Bác trong cuộc sống đời thường này nữa. Mất Bác, sự thiếu vắng ấy liệu có bù đắp được? Đất nước ta thực sự không còn Bác Hồ dõi theo từng bước đi, không còn được Bác nâng đỡ mỗi khi vấp ngã. Bác ra đi, nỗi đau có từ nào diễn tả được không? Toàn thể thiếu nhi Việt Nam luôn thương tiếc Bác, luôn nhớ đến Bác như một điều gì đó cao cả, không gì có thể xóa nhòa. Dù Bác đã thực sự đi xa nhưng những gì Bác đã làm sẽ còn mãi trong tâm hồn, hình ảnh của Bác sẽ còn mãi trong trái tim mỗi người Việt Nam.

Cuối cùng, dù thương tiếc Bác đến đâu, cũng đến lúc phải từ biệt Lăng Bác để ra về. Khổ thơ cuối như một lời tiễn biệt xúc động:

Vào Nam nước mắt rưng rưng

Ngày mai tôi phải rời xa chú tôi. Một tiếng “miền Nam yêu thương” vang lên, gợi nhớ về miền đất xa xôi của Tổ quốc, nơi đã từng ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người. Một chữ “thương” là tình yêu, lòng biết ơn, sự kính trọng đối với cuộc đời cao cả, vĩ đại của Người. Đó là tiếng tiếc thương khi mất Bác. Thương Bác mà nước mắt trào ra, đúng là tình người Việt Nam vô bờ bến và rất thật.

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?

Bạn muốn trở thành bông hoa thơm ở đâu?

Muốn làm nơi này vị tre

Cùng với tình yêu thương vô bờ bến, tác giả đã nói lên muôn vàn lời tự nguyện. Điệp ngữ “muốn làm” khẳng định mạnh mẽ những mong muốn đó. Ước gì chúng ta có thể hóa thân thành những đồ vật thân thương quanh nơi Bác Hồ ngủ để chúng ta mãi mãi ngưỡng mộ Người, cuộc đời và tâm hồn của Người, để bày tỏ tấm lòng của mình với Người. Một con chim nhỏ góp tiếng hót cho buổi bình minh của Bác, một bông hoa góp hương làm thơm không gian quanh Bác hay một cây tre trong hàng tre Việt Nam xanh xanh tỏa bóng mát dịu dàng trên quê hương Bác, tất cả đều làm Bác vui và ngủ tốt hơn. Đây cũng là nguyện vọng chân thành, sâu sắc của hàng triệu trái tim người Việt Nam sau chuyến viếng thăm lăng Bác. Chú! Bác hãy ngủ yên nhé, chúng cháu sẽ vào Nam tiếp tục xây dựng đất nước từ nền tảng bác đã tạo dựng! Câu thơ chìm dần về cuối, ngắt hẳn…

Về nghệ thuật, bài thơ “Viếng lăng Bác” có nhiều điểm nghệ thuật đặc sắc, góp phần thể hiện thành công những giá trị nội dung. Bài thơ được viết theo thể tám chữ, xen kẽ một số câu bảy, chín chữ. Nhiều hình ảnh trong bài thơ được lấy từ hiện thực cuộc sống đã được ẩn dụ, trở thành cách thể hiện tình cảm trân trọng của tác giả. Nhịp thơ linh hoạt, có lúc nhanh là biểu hiện của khát vọng đền đáp công ơn Bác, có lúc chậm là lúc tỏ lòng thành kính với Bác. Giọng điệu trang trọng, tha thiết, ngôn ngữ thơ giản dị mà cô đúc.

Bằng những lời văn, lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn Phương đã bày tỏ niềm xúc động, lòng biết ơn sâu sắc đối với Bác Hồ trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ như tiếng nói chung của toàn dân tộc Việt Nam, bày tỏ niềm tiếc thương khi tiễn Bác kính yêu ra đi. Qua bài thơ em thấy đất nước ta được thanh bình như ngày nay một phần lớn là nhờ công lao của Bác, vì vậy chúng ta cần phải biết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, để có được những công lao to lớn đó. của chú không lãng phí.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 15

Bác Hồ – vị cha già kính yêu của dân tộc. Anh đã hy sinh để bảo vệ và xây dựng đất nước khỏi quân xâm lược. Bác mất đi là niềm tiếc thương của cả dân tộc. Thiếu nhi các nước về bên Bác, vào viếng Bác nghỉ ngơi cuối cùng. Và trong lần vào Lăng viếng Bác, nhà thơ Viễn Phương đã viết nên những vần thơ ấm áp chứa chan tình cảm thiêng liêng dành cho Bác – vị cha già kính yêu của dân tộc.

Em vào Nam viếng lăng Bác

Nhìn trong sương hàng tre

Ôi tre xanh xanh Việt Nam

Mưa bão rơi thẳng hàng

Mở đầu bài thơ là hình ảnh các cháu thiếu nhi đến viếng Bác. Đại từ nhân xưng “con” là sự tôn kính, kính trọng đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. hình ảnh hàng tre xanh đứng thẳng, hình ảnh làng quê Việt Nam hiện lên trong mắt người đọc. Bác là người giản dị, rất yêu thương đồng bào. Khi Bác mất, bên cạnh Bác không phải là những bông hoa đắt tiền mà là những hàng tre xanh, thể hiện ý chí, nghị lực của những người con Việt Nam luôn trường tồn với sức sống mãnh liệt.

Ngày qua ngày nắng qua lăng

Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên

Hôm nay dòng người lững thững đi trong tình yêu

Hết bảy mươi chín mùa xuân cúng dường

Câu thơ xuất hiện hình ảnh hai mặt trời. Mặt trời đầu tiên là mặt trời theo nghĩa đen, hiện tượng của tự nhiên. Ông mặt trời ở câu thơ thứ hai là hình ảnh ẩn dụ về Bác Hồ. Bởi trong lòng những người con của Tổ quốc, Bác Hồ là duy nhất. Nếu mặt trời sưởi ấm vạn vật thì Bác Hồ cũng chính là mặt trời sưởi ấm trái tim thiếu nhi Việt Nam và cũng là ánh sáng soi rọi cuộc đời các em. Để rồi trong lòng nhân dân hình ảnh Bác Hồ không bao giờ mất đi, Bác vẫn được các cháu trang hoàng những bông hoa tươi đẹp nhất để tưởng nhớ 79 năm tuổi xuân của Người.

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa vầng trăng sáng dịu dàng

Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim

Dù trong trái tim của mỗi người con, Bác vẫn mãi mãi ở đây, nhưng chúng tôi vẫn không thể quên một điều rằng Bác đã thực sự ra đi mãi mãi. Khiến tác giả “nghe trong lòng”. Các cháu lúc này chỉ mong một điều duy nhất là Bác có cuộc sống bình yên thực sự bởi khi Bác còn tại thế, Bác đã luôn chăm lo cho đời sống của con cháu đất nước. . Giờ đây, Bác đã luôn thanh thản, yên nghỉ mà sao những cảm giác ấy vẫn nhói đau trong lòng không sao xua đi được.

Vào Nam nước mắt rưng rưng

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?

Bạn muốn trở thành bông hoa thơm ở đâu?

Muốn làm nơi này vị tre

Ở khổ thơ cuối, dường như tác giả đã thoát ra khỏi cảm xúc dâng trào tột độ. Hàng loạt từ “muốn làm” như nói lên suy nghĩ của tác giả. Biện pháp liệt kê được sử dụng trong toàn bài thơ nhằm thể hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả. Ngày mai phải xa Bác, nhưng ở đây tác giả vẫn còn nhiều nỗi nhớ, không muốn về, chỉ muốn làm hoa, làm chim để hàng ngày được ở bên Bác, ngắm nhìn lăng Bác cho anh đi ngủ. .

Tóm lại, bài thơ là tình cảm sâu nặng của tác giả đối với Bác Hồ – vị cha già của dân tộc. Lời tâm sự, mong ước của tác giả cũng là tiếng nói từ trái tim của tất cả những người con trên cả nước. Hình ảnh người cha luôn hết lòng hy sinh vì nước giúp đất nước được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột, khỏi kiếp sống nô lệ. Đoạn thơ là một bức tranh tình cảm giàu chất trữ tình, đằm thắm, thiết tha. Bằng những hình ảnh ẩn dụ tinh tế, giàu tính thẩm mĩ và những biện pháp tu từ độc đáo… đã thể hiện tình cảm chân thành, tha thiết, sâu sắc của nhà thơ cũng như của đồng bào miền Nam đối với Bác Hồ. vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Dù nay Người đã thể hiện những phẩm chất cao quý, những đóng góp to lớn, cao cả nhưng sự nghiệp cách mạng của Người sẽ mãi trường tồn trong lòng người dân Việt Nam.

Văn mẫu bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 16

Bác Hồ luôn là đề tài muôn thuở trong thơ ca Việt Nam. Ông là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ, nhà văn thể hiện tài năng của mình trong các tác phẩm của mình. Có thể nói Bác Hồ là hình ảnh đẹp nhất, trong sáng nhất trong thơ ca Việt Nam. Nhiều tác phẩm viết về Người, viết về những cuộc viếng thăm, gặp gỡ Người nhưng có lẽ xúc động nhất trong những tác phẩm đó là “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ là cảm xúc của một người con ở miền Nam xa xôi trở về thăm Bác sau khi Bác ra đi.

Viễn Phương là nhà thơ xuất hiện khá nhiều trên văn đàn Cách mạng ở Nam Bộ từ những ngày ông còn kháng chiến. Nhưng tác phẩm “Viếng lăng Bác” có lẽ là tác phẩm thành công nhất của ông khi viết về Bác Hồ. Cả bài thơ chất chứa nỗi buồn và tình cảm chân thành đối với vị cha già dân tộc của người con phương xa trở về thăm. Mở đầu bài thơ, tác giả chào chúng ta, đến Bác Hồ kính yêu rằng:

Em vào Nam viếng lăng Bác

Nhìn trong sương hàng tre

Ồ! Hàng tre xanh Việt Nam

Mưa bão rơi thẳng hàng

Khác với những nhà thơ khác dùng những lời chào hoa mỹ để miêu tả một cuộc viếng thăm, Viễn Phương dùng lời giới thiệu chân thành nhất của mình. Tác giả sống ở phương Nam xa xôi, mãi đến hôm nay sau khi nước nhà giành độc lập mới được vào thăm vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. hai chữ “nam” như muốn nhấn mạnh sự xa cách về khoảng cách địa lý giữa hai đầu đất nước.

Và cuộc viếng thăm của nhà thơ như một niềm mong ước bấy lâu nay được vào lăng Bác. Bác mất năm 1969, nhưng mãi đến năm 1976, Viễn Phương mới về miền Bắc thăm Bác. Nói là viếng nhưng thực ra là viếng lăng Bác vì Bác đã mất từ ​​lâu.

Nhưng ở đây, rõ ràng nhà thơ không dùng từ “thăm” như mục đích thực sự của chuyến đi này, mà dùng từ “thăm”. Vì tác giả cũng như những người con Nam Bộ khác vào đây thăm quê, thăm lại người Cha già của mình. Cũng bởi, miền Nam là một phần máu thịt của Việt Nam, là một phần “quê hương” mà Bác luôn đau đáu về thăm nhưng chưa có dịp đến:

Tôi yêu miền Nam, tôi yêu quê hương tôi

Miền Nam nhớ Bác nhớ cha

(Tố Hữu)

Nghệ thuật nói giảm nói tránh được nhà thơ sử dụng ở đây như một cách để xoa dịu nỗi đau vô cùng đang trào dâng trong lòng. Biết bao cảm xúc đau thương có thể tràn ngập trong lòng như cơn sóng mạnh, nhưng ấn tượng đầu tiên đọng lại trong lòng tác giả là “hàng tre”. Ẩn hiện trong làn sương sớm long lanh bao quanh lăng Bác là hàng tre xanh.

Cây tre từ lâu đã trở thành biểu tượng của dân tộc ta và tinh thần bất khuất của ông cha ta. Từ thời Thánh Gióng cầm tre đuổi giặc, đến những chông gai cản bước quân thù. Cây tre cứ thế đi vào đời sống tinh thần của người Việt Nam. Hàng tre trước mắt Viễn Phương hiện ra “nhan nhản”.

Không phải từ nào khác mà “bâng khuâng” khiến người đọc như cảm nhận được sự đồ sộ, bao la, rộng lớn của những hàng tre bao quanh lăng Bác. Ấn tượng ấy của nhà thơ bỗng biến thành một câu cảm thán.

Ồ! Hàng tre xanh Việt Nam

Mưa bão rơi thẳng hàng

Nhìn những hàng tre quanh lăng Bác, nhà thơ chợt cảm thấy những hàng tre ấy như ý chí của dân tộc Việt Nam bao năm qua luôn bất khuất, kiên cường và hào hoa. Dù trải qua “mưa bão” nhưng họ vẫn đoàn kết, cùng nhau đứng lên. Từ “xanh xanh” được dùng ở đây như một cách diễn đạt, để nói lên rằng dân tộc Việt Nam, dân tộc Việt Nam mãi mãi xanh “xanh”.

“Xanh lam” có nghĩa là luôn luôn giống nhau, luôn luôn có cùng một màu xanh lam. Các thế hệ con cháu mai sau luôn mạnh mẽ để bảo vệ tổ quốc. Cả khổ thơ đầu chứa đựng những cảm xúc đầu tiên của tác giả khi lần đầu tiên được vào thăm lăng Bác. Trong khổ thơ đó là sự tiếc thương trước sự mất mát của Bác nhưng ẩn chứa trong đó là một niềm tự hào dân tộc.

Bước sang khổ thơ thứ hai, ta theo chân Viễn Phương tiến dần vào lăng Bác. Trong không khí trang nghiêm ấy, nhà thơ chợt thấy hình ảnh ông mặt trời. Một mặt trời của vũ trụ ngày đêm luân chuyển không ngừng. Mặt trời ấy “ngày ngày” xuyên qua lăng Bác, sưởi ấm cho Người. Và từ đó, nhà thơ cũng chợt nhận ra “một mặt trời trong lăng đỏ lắm”.

Một ẩn dụ vô cùng tinh tế và độc đáo. Bác Hồ – Người là mặt trời, là con thuyền đưa dân tộc Việt Nam đi qua những ngày đen tối nhất. Nếu như mặt trời của vũ trụ hằng ngày tỏa ánh sáng ấm áp đến nhân gian thì Bác Hồ – mặt trời của dân tộc Việt Nam đã và luôn tỏa ánh sáng vĩ đại soi đường cho dân tộc. Trong thơ ca, nhiều tác giả đã dùng hình ảnh ông mặt trời để so sánh với Bác Hồ. Như Tố Hữu cũng đã nói:

Người rực rỡ một mặt trời cách mạng

Và đế chế là một con dơi sợ hãi

(Sáng tháng năm)

Nhưng ở đây, với Viễn Phương, vẫn là hình ảnh ấy, nhưng mang một màu sắc rất riêng. Nếu như nắng bên ngoài đỏ rực hàng ngày thì nắng trong lăng nơi đây cũng đỏ rực một màu riêng. Màu đỏ ấy toát lên từ phẩm chất con người Hồ Chí Minh, từ lý tưởng cao cả mà Người mang, từ ý chí bất khuất, ý chí chiến đấu ngoan cường mà Người đã thể hiện, từ những công lao Người đã lập.

Tất cả những điều đó tạo nên một mặt trời rực rỡ, sánh ngang với mặt trời của vũ trụ ngoài kia. Tác giả đã khéo léo sử dụng ở đây cụm từ “ngày trong ngày”. “Ngày qua ngày” có nghĩa là sự liên tục của thời gian, sự lặp lại theo chu kỳ của tự nhiên cũng như lý tưởng, ý chí của Ngài sẽ luôn sáng tỏ như mặt trời. Lần thứ hai, “ngày qua ngày” được lặp lại khi miêu tả dòng người lặng lẽ vào lăng viếng Người. Dòng người bước đi trong trang nghiêm và lặng lẽ, trong tiếc thương đau thương.

Ở đây, tác giả đã rất tinh tế khi không phải là một đoàn người, một dòng người mà là một dòng người. Điều này khiến người đọc có cảm giác như khoảng lặng, trải dài vô tận của những người đến viếng Bác. Cả đoàn người chỉ biết lặng lẽ “đi trong niềm thương nhớ” về vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc. Nỗi nhớ ấy đã kết thành một “ tràng hoa”, dòng người ấy đã trở thành vòng hoa bất tận để dâng lên Bác.

Tham Khảo Thêm:  Xem hơn 100 ảnh về hình vẽ pháo tết

Và Viễn Phương đã hòa vào dòng người mang theo tấm lòng kính yêu chân thành dâng Bác, dâng “bảy mươi chín mùa xuân” của Người. “Bảy mươi chín mùa xuân” là tuổi của Bác. Cả cuộc đời với bảy mươi chín mùa xuân, đều cống hiến cho dân tộc, không một giây phút ngơi nghỉ cho riêng mình. Tác giả muốn thể hiện sự cống hiến to lớn mà Bác đã hi sinh cho đất nước. Và sự hy sinh đó đã giúp cả dân tộc được sống trong hòa bình.

Ngày qua ngày nắng qua lăng

Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên

Ngày qua ngày dòng người bước đi trong tình yêu

Hết bảy mươi chín mùa xuân cúng dường

Đây có lẽ là khổ thơ đắt giá nhất của bài thơ. Cả khổ thơ là lời tri ân công ơn của Bác, đó cũng là lòng biết ơn, sự biết ơn vô hạn của mọi người dân Việt Nam đối với Bác. Tiếp đó, nhà thơ tiếp tục hành trình viếng lăng Bác. Và giờ đây, anh đã được gặp lại người Cha già mà anh hằng kính yêu và kính trọng:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa vầng trăng sáng dịu dàng

Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim

Bác nằm đó, nhẹ nhàng, thanh thản như đang chìm vào giấc ngủ ngon. Cả đời ông chỉ có một tâm nguyện duy nhất là đất nước được bình yên. Để rồi giờ đây, khi đất nước đã hòa bình, độc lập, Người đã yên giấc ngàn thu.

Cả cuộc đời Người đã cống hiến hết sức lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, để giờ đây Người đang “ngủ yên giấc nồng”. Với nhà thơ hay với bất cứ ai, Bác Hồ cũng như năm nào, tự thưởng cho mình một giấc ngủ ngon sau bao ngày vất vả, sớm khuya lo cho cuộc đấu tranh của nhân dân:

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ lo nước ấy

Một lần nữa, Viễn Phương phải dùng đến những biện pháp giảm nhẹ để làm dịu đi bầu không khí đau thương đang tràn ngập trong tâm hồn. Bác nằm đó, giữa giấc ngủ êm đềm chưa từng có, giữa ánh sáng dịu nhẹ lan tỏa trong không gian.

Ánh sáng ấy có thể là ngọn đèn ngủ êm dịu thắp trong lăng Bác. Nhưng có lẽ nhà thơ đang nói về vầng trăng thiên nhiên – vầng trăng mà Bác yêu quý nhất. Có thể thấy, thơ ông luôn tràn ngập hình ảnh vầng trăng. Ví dụ:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng bóng cây cổ thụ hoa lồng

Hoặc:

Giữa lúc bàn việc quân

Trăng khuya lấp thuyền

Có lẽ ở đây, tác giả không chỉ đơn thuần muốn nói đến ngọn đèn trong lăng Bác mà còn nói đến vầng trăng thiên nhiên ngoài kia. Vì cuộc đời Bác càng yêu trăng hơn bao giờ hết. Giờ đây khi được bước sang một thế giới khác yên bình hơn, anh muốn được hòa mình với vầng trăng của thiên nhiên, luôn sáng, đẹp, trường tồn với thời gian như lý tưởng của anh. Và tiếp theo, sau bao nhiêu kìm nén, nhà thơ đã phải bật ra tiếng nấc nghẹn ngào:

Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim

Một lời khiển trách đau đớn biết bao! Lời khiển trách đó là lời quở trách của trời xanh. Bầu trời vẫn thế, năm tháng vẫn xanh một màu bất diệt, vậy tại sao vị cha già của dân tộc lại phải ra đi? Vẫn biết quy luật sinh diệt của tạo hóa mà lòng vẫn ngậm ngùi đau xót. Dù lý trí luôn nói rõ những quy luật của tự nhiên là bất biến nhưng nhà thơ vẫn “nghe nhói trong lòng”.

Nỗi đau nghẹn ngào ấy đã trở thành lời trách móc thấu tận trời xanh. Và cái cảm giác “nghe nhói lòng” khiến người đọc cũng như đồng cảm được phần nào nỗi đau, nỗi lòng mà tác giả muốn bày tỏ. Cảm xúc ấy dồn nén đến tất cả các giác quan trong cơ thể con người.

Cuộc gặp nào rồi cũng đến, chuyến vào thăm Chủ tịch Hồ Chí Minh của Viễn Phương cũng vậy. Đến lúc phải từ biệt, nhà thơ vô cùng xúc động. Cảm xúc ấy cùng với nỗi đau bị kìm nén từ đầu đã biến thành tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào:

Vào Nam nước mắt rưng rưng

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?

Bạn muốn làm cho bông hoa nở ở đâu?

Muốn làm nơi này vị tre

Ngày mai anh phải xa Em, rời xa Cha già thân yêu để về với phương Nam xa xôi, biết bao giờ mới có dịp về thăm lại. Chính vì vậy mà nhà thơ đã òa lên nức nở. Bao nhiêu đau đớn, nghẹn ngào chỉ tuôn trào theo dòng nước mắt. Lúc này, trong đầu nhà thơ chợt hiện lên một ước nguyện:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?

Bạn muốn làm cho bông hoa nở ở đâu?

Muốn làm nơi này vị tre”

Từ “muốn” được lặp lại ba lần như khẳng định lại ước nguyện của nhà thơ. Đó là khát khao mãnh liệt, khát khao cháy bỏng của nhà thơ. Mong ước ấy chỉ là được ở bên Người – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, chỉ được làm “con chim hót”, “bông hoa”, “cây tre trung thành”. Tất cả đều là những điều rất nhỏ nhặt, tầm thường nhưng lại là tâm nguyện của tác giả.

Vì tiếng chim hót sẽ ru anh vào giấc ngủ ngon, hoa sẽ tỏa hương thơm và một cây trúc nhỏ sẽ luôn trung thành với nơi này. Nhịp thơ ở đây chậm hơn một nhịp so với các khổ thơ trước. Sự chậm rãi ấy như kéo dài thêm giây phút xa cách. Kết thúc bài thơ, hình ảnh hàng tre một lần nữa hiện lên như một vòng tuần hoàn.

Cây tre là biểu tượng của người Việt Nam, là biểu tượng của ý chí và sức mạnh của dân tộc. Tác giả muốn được ở bên lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh để trở thành cây tre trung thành với Bác, với lý tưởng mà Người đã chỉ đường. Qua đó, nhà thơ muốn khẳng định thêm một điều, đó là lòng tin yêu, thủy chung của mỗi người dân Việt Nam đối với Bác, vào lý tưởng và chân lý mà Bác đem đến cho chúng ta.

Cả khổ thơ thể hiện niềm khát khao cháy bỏng của tác giả, đó cũng là mong ước của mỗi con người Việt Nam. Đó là luôn được ở bên cạnh, được ở bên vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc từ bao đời nay, thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào Bác và lý tưởng mà Bác đã dày công vun đắp.

Đoạn thơ kết thúc nhưng mang đến cho người đọc rất nhiều cảm xúc. Chỉ một lần vào thăm nhưng chứa đựng biết bao tình cảm, biết bao tình cảm kính yêu sâu nặng của một người con miền Nam đối với Bác Hồ kính yêu. Bài thơ được kết cấu theo thể thất ngôn bát cú. Thể thơ này được kết cấu như một câu chuyện kể với nhịp điệu chậm rãi khiến người đọc cảm nhận được hết những cung bậc cảm xúc mà nhà thơ muốn bày tỏ.

Cùng với hệ thống biện pháp tu từ mà phần lớn là phép láy, tác phẩm “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã làm sống lại trong lòng người đọc tình cảm kính yêu Bác Hồ và từ đó hòa cùng nỗi đau thương. cũng như những mong ước mà tác giả muốn bày tỏ.

“Hồ Chí Minh – Người ở khắp mọi nơi”. Đây là lời khẳng định của Tố Hữu trước sự chứng kiến ​​của Bác Hồ. Dù Bác đã đi xa nhưng sự hiện diện của Bác còn mãi trong lòng mỗi người con đất Việt. Ông là vị cha già đáng kính, là “linh hồn của mọi linh hồn”. Sự ra đi của anh thật đau đớn và đáng thương, nhưng lý tưởng, ý chí và phẩm chất của anh mãi mãi là tấm gương phản chiếu con đường mà dân tộc Việt Nam sẽ đi và mang vinh quang trở lại. . Đó cũng là lời mà Viễn Phương muốn nói qua bài thơ “Viếng lăng Bác”.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 17

Viễn Phương là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của lực lượng giải phóng miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Các sáng tác của anh nhằm khám phá những sắc thái, cung bậc cảm xúc khác nhau trong đời sống con người. Những tác phẩm mang tên Viễn Phương có thể kể đến như: Địa đạo quê hương, Phù sa quê hương, Như mây xuân, đặc biệt là bài thơ “Viếng lăng Bác”.

Bài thơ Viếng lăng Bác ra đời vào tháng 4 năm 1976, khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ thắng lợi, nước ta hoàn toàn độc lập, Lăng Bác được mở. Nhân dịp này, nhà thơ Viễn Phương lần đầu tiên đến thủ đô Hà Nội, viếng Lăng Bác, tại đây ông đã sáng tác bài thơ Viếng lăng Bác. Bài thơ được đăng trong tập thơ Như Mây Xuân (1978) của tác giả. Tác phẩm gồm 4 khổ thơ thể hiện tình cảm, sự kính trọng của nhà thơ trong lần vào thăm lăng Bác.

Ở khổ thơ đầu, ta thấy được cảm xúc trào dâng của nhà thơ Viễn Phương trước lăng Bác:

“Tôi vào Nam thăm lăng Bác.

Cây trúc sừng sững trong sương

cửa hàng tre xanh việt nam

Mưa bão rơi ngang dọc”

“Em vào Nam viếng lăng Bác” là lời giới thiệu ngắn gọn nhưng chân thành của nhà thơ, dòng tâm sự như một lời tâm sự xa vắng của người con khi có dịp về thăm Bác. Ấn tượng đầu tiên khi viếng lăng nhà thơ là cảnh “hàng tre” thấp thoáng trong sương. Câu cảm thán “Ôi” thể hiện tình cảm, cảm xúc của nhà thơ khi nhìn thấy hình ảnh hàng tre. Cây tre không chỉ là cây đại thụ trong đời sống con người mà còn là biểu tượng cho phẩm chất tốt đẹp của dân tộc Việt Nam: đoàn kết, bền bỉ, dù trải qua bao thăng trầm, “bão táp” vẫn trường tồn. sống lâu. “xếp hàng”. Cụm từ “mưa dầm” là hình ảnh ẩn dụ chỉ những khó khăn, gian khổ mà cả dân tộc ta đã phải trải qua trong suốt 4 thiên niên kỷ lịch sử của đất nước. Quân và dân ta đã vượt qua mọi thăng trầm để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, bằng lòng yêu nước, ý chí và tinh thần đoàn kết dân tộc.

Bước sang khổ thơ thứ hai, nhà thơ như hòa mình vào dòng người vào lăng viếng Bác:

“Hàng ngày, dòng người qua lại trong chùa tấp nập.

Nhìn về phía mặt trời đỏ

Ngày qua ngày người ta bước đi trong tình yêu

Tất cả bảy mươi chín mùa xuân cúng dường

“Mặt trời” là một vật thể của tự nhiên, nó mọc và lặn theo một quy luật, mặt trời mang lại ánh sáng và sự sống cho con người và vạn vật trong thế giới. Ở Việt Nam cũng có một “mặt trời đỏ” rất đẹp bên cạnh lăng Bác, đó là Bác Hồ. Bác Hồ đã đem lại ánh sáng sự sống cho hàng triệu người dân Việt Nam bằng cách xua tan màn đêm đen tối. Viễn Phương không phải là nhà thơ đầu tiên so sánh Bác Hồ với mặt trời, Tố Hữu đã từng so sánh như vậy trong bài thơ “Sáng tháng Năm”: “Người buổi sáng là mặt trời cách mạng/ Đế quốc là đàn dơi sợ”. mặt trời trong thơ Viễn Phương vẫn mang nhiều cảm xúc đặc biệt như được thắp lên bởi tình yêu nồng nàn dành cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.

“Dòng người đi nhớ ngày” Đoàn người vào lăng viếng Bác nối tiếp nhau thành “dòng người” dài bất tận. “Dòng người” này lặng lẽ tiến vào lăng Bác với niềm tiếc thương vô hạn đối với Bác. Vì đối với nhân dân Việt Nam, Bác Hồ là vị cha già kính yêu của dân tộc. Vì vậy cái chết của ông là một tổn thất lớn đối với đất nước chúng ta. Điệp ngữ “ngày lại ngày” được Viễn Phương đặt ở đầu bài thơ nhằm nhấn mạnh tần suất, tính chất liên tục của những lần thiếu nhi Việt Nam đến viếng Bác. Dòng người này như một “đội hoa” bất tận để tôn vinh “bảy mươi chín mùa xuân” của họ. Bác Hồ ra đi ở tuổi bảy mươi chín nên nhà thơ Viễn Phương đã dùng hình ảnh tượng trưng “bảy mươi chín mùa xuân” để nói lên lòng kính yêu Bác Hồ kính yêu và lòng biết ơn của một người con. để tiết kiệm nước.

Khổ thơ thứ ba, khi Viễn Phương vào lăng, nhìn thấy di vật, nhà thơ không giấu được cảm xúc:

“Tôi nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa trăng sáng

Tôi vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Nhưng tại sao lại lắng nghe nhịp tim của bạn?

Bác đã vĩnh viễn ra đi, nhưng với nhà thơ cũng như với tất cả những người con Việt Nam, Bác dường như đang ngủ yên sau những giờ phút thiết tha lo cho sự nghiệp của đất nước. Ánh sáng trong lăng khiến Viễn Phương liên tưởng đến ánh sáng của “vầng trăng dịu dàng”. Nhà thơ liên tưởng đến ánh trăng bởi những trang thơ của Bác như ánh trăng bạc dịu dàng:

“Người ngắm trăng soi qua cửa sổ

Trăng nhòm nhà thơ ngắm cửa”

(Vầng Trăng Hy Vọng)

Hoặc:

“Các cuộc đàm phán quân sự Sanctuary

Vâng, bán thường, thuyền trăng tròn”

(rằm tháng giêng)

Bầu trời ngàn năm không thay đổi, luôn mang một màu xanh ngắt vô cùng. Nhưng con người phải trải qua sinh, lão, bệnh, tử, sinh, trưởng, lão, tử. Nhưng Bác Hồ mãi mãi là “bầu trời xanh” cao đẹp, vĩnh hằng trong trái tim của hàng triệu người dân Việt Nam. Bác Hồ đã đi xa nhưng sống mãi trong trái tim và khối óc của những người còn lại. “Bác vẫn biết” Bác vẫn còn đây, vẫn sống mãi với mọi người, với núi rừng Việt Nam, nhưng nghĩ đến Bác mất, trái tim nhà thơ vẫn “đập” một nhịp đau “Mà nghe lòng đau”. .

Kết lại bài thơ là nỗi nhớ của nhà thơ khi phải tạm biệt Bác để trở về Nam cùng gia đình:

“Hành trình về phương nam ngày mai sẽ đầy nước mắt.

Bạn có muốn làm chú chim hót bên lăng Bác không?

Bạn muốn hoa nở ở đâu?

Tôi muốn làm cho nơi này có hương vị như tre”

Giây phút trở về, lòng nhà thơ dấy lên nỗi nhớ nhung, tiếc nuối. Không nỡ xa Bác, nhà thơ ước mong Bác sẽ trở thành kỉ niệm nhỏ bé như cánh chim, bông hoa, lũy tre “chung thủy” mãi mãi ở bên Bác. Nhà thơ đã ba lần sử dụng hình ảnh ngụ ngôn “tôi muốn” để nhấn mạnh khát vọng nhỏ bé nhưng mạnh mẽ của mình. Khổ thơ cuối thể hiện khát vọng tha thiết, mãnh liệt của nhà thơ và của hàng triệu người dân trên đất nước Việt Nam này. Hình ảnh hàng tre ở khổ thơ cuối là sự đối đáp với hình ảnh “hàng tre xanh” nguyên thủy. Hình ảnh hàng tre như hàng triệu người dân Việt Nam quây quần bên Bác, những người “trung thành” ngày đêm canh giấc ngủ bình yên của Bác.

Bài thơ “Viếng lăng Bác” được viết bằng thể thơ tám chữ súc tích. Giọng điệu của bài thơ trang trọng và thành kính, trang trọng và nhẹ nhàng. Các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, hoán dụ, so sánh được sử dụng linh hoạt, uyển chuyển. Ngôn ngữ thơ dung dị, giàu sức gợi, gần gũi hình ảnh thơ mạnh mẽ đã thể hiện tình cảm chân thành và lòng biết ơn, kính trọng vô hạn của nhà thơ đối với Bác Hồ khi Bác được công nhận là Trạng nguyên. . Viếng Lăng Bác.

Viếng Lăng Bác của Viễn Phương là một bài thơ hay thể hiện lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc của thiếu nhi Việt Nam đối với Bác Hồ kính yêu. Dù đã gần năm mươi năm trôi qua nhưng nó vẫn giữ nguyên giá trị đẹp đẽ và để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Văn mẫu bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 18

Trong những ngày cả nước đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, sự nghiệp giải phóng miền Nam sắp đi đến thắng lợi hoàn toàn, nhà thơ Viễn Phương được ra Bắc viếng Lăng Bác. Trước khi chia tay, nhà thơ đã để lại bài thơ bày tỏ tình cảm sâu nặng, niềm kính yêu vô hạn và sự ngưỡng mộ, tôn kính đối với Bác Hồ vĩ đại – Người đã từng chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam. Nam tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác:

Em vào Nam viếng lăng Bác

Nhìn trong sương hàng tre

Ồ! Hàng tre xanh Việt Nam

Mưa bão rơi thẳng hàng

Câu thơ mở đầu gợi khung cảnh linh thiêng, thành kính. Tác giả tự xưng là “con” – người con đã đi xa bao năm nay đã trở về đứng trước ngôi mộ của vị cha già dân tộc. Cách gọi ấy còn gợi cảm giác ấm cúng, gần gũi – tình cảm trong gia đình. Sự gần gũi ấm áp ấy còn được thể hiện qua hình ảnh “hàng tre” trong sương. Hàng tre quen thuộc làm sao. Bao đời nay, cây tre vẫn được coi là bản lĩnh, cốt cách của người Việt Nam. Một hình ảnh thực sự ý nghĩa.

Tác giả tiếp tục dòng suy nghĩ khi đứng trước lăng:

Ngày qua ngày nắng qua lăng

Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên

Ngày qua ngày dòng người bước đi trong tình yêu,

Hết bảy mươi chín mùa xuân cúng dường…

Mặt trời đi qua trên lăng là mặt trời của vũ trụ, của thiên nhiên. Mặt trời chiếu sáng tất cả thế giới. Mặt trời thường tượng trưng cho sự thật. Dưới ánh mặt trời, vạn vật, vạn vật đều tươi sáng. Chỉ thấy mặt trời đỏ và “thấy mặt trời trong lăng đỏ lắm”. “Mặt trời trong lăng” là hình ảnh Bác Hồ vĩ đại với trái tim đỏ thắm.

Trái tim ấy, mặt trời ấy mãi mãi soi sáng cho dân tộc Việt Nam, mặt trời thiên nhiên, mặt trời vũ trụ được nhân hóa thể hiện lòng ngưỡng mộ của nhà thơ đối với sự nghiệp, con người và cuộc đời của Bác Hồ. Nhà thơ còn tạo ra hình ảnh mọi người kết thành “ tràng hoa” dâng bảy mươi chín mùa xuân để nói lên tấm lòng của cả nước đối với Bác Hồ.

Khi vào lăng, tác giả tiếp tục suy nghĩ:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa vầng trăng sáng dịu dàng

Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim

Với dân tộc Việt Nam, Bác Hồ không bao giờ mất, Bác Hồ vẫn sống. Nằm trong lăng Bác chỉ là giây phút yên nghỉ. Bác đã ngủ yên vì đã cống hiến cả cuộc đời cho đất nước, cho dân tộc. Bác nằm “giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Đây cũng là hình ảnh ẩn dụ “vầng trăng sáng hiền” là tấm lòng của nhân dân đối với Bác.

Tác giả bày tỏ lòng tiếc thương vô hạn đối với Bác: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. Vẫn biết Bác không bao giờ mất nhưng sự thật là sự thật! Bác đã ra đi mãi mãi. “Nỗi đau trong lòng” không chỉ là nỗi đau của riêng thi nhân mà là nỗi đau của tất cả mọi người.

Tác giả vĩnh biệt Bác trong niềm xúc động trào dâng:

Vào Nam nước mắt rưng rưng

Muốn làm tiếng chim hót quanh lăng…

Viễn Phương bày tỏ thật thà những suy nghĩ, tình cảm của mình đối với Bác. Đó là phong cách của người Nam Bộ: rõ ràng, dứt khoát. Đó cũng chính là tình cảm của đồng bào miền Nam đối với Bác Hồ. Mong ước của tác giả rất giản dị mà sâu sắc: muốn làm chim, muốn làm hoa, muốn làm cây trúc. Lời chúc đó thật chân thành và cảm động. Đó là điều trăn trở của tất cả những ai từng có dịp viếng thăm lăng Người.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh hàng tre, kết thúc bằng hình ảnh cây trúc thân thuộc hiền hòa. Nhưng đây cũng là một lời hứa của tác giả trước anh linh Bác Hồ: luôn giữ vững cốt cách, phẩm chất của dân tộc Việt Nam!

Viếng lăng Bác của Viễn Phương vừa giàu hình ảnh, vừa giàu tình cảm. Đoạn thơ đã thể hiện sâu sắc tình cảm của tác giả và đồng bào Nam Bộ đối với vị lãnh tụ kính yêu. Viếng lăng Bác đã trở thành một trong những bài hát được người dân cả nước yêu thích.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 19

Mỗi tác giả đều có những cảm xúc riêng khi viết về Hồ Chí Minh như ngậm ngùi, tiếc nuối, tự hào, cảm phục về một cuộc đời vì dân, vì dân, vì nước. Nhà thơ Viễn Phương lần đầu tiên vào thăm lăng Bác cũng giật mình nhận ra những thay đổi trong cảm xúc của chính mình khi nhìn Bác nằm ngủ yên bình. Bài thơ “Viếng lăng Bác” là sự kính trọng, ngưỡng mộ và biết ơn của nhà thơ đối với vị lãnh tụ vĩ đại.

Năm 1976, đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành; Tác giả theo đoàn công tác từ miền Nam vào viếng lăng Bác. Cảm xúc của người con lần đầu tiên vào thăm lăng Bác thực sự dồn nén trong lòng tác giả. Bài thơ như một lời tri ân, kính trọng của người con phương xa trở về thăm cha. Có lẽ những câu thơ ấy đã nói hộ nỗi lòng của nhiều người, nhiều người dân Việt Nam được vào lăng Bác.

Xuyên suốt bài thơ là một mạch cảm xúc rưng rưng, ​​xúc động, không kìm được lòng mình khi đứng trước vị anh hùng dân tộc. Bài thơ mở đầu bằng tiếng reo vui:

Em vào Nam viếng lăng Bác

Nhìn trong sương hàng tre

Ôi tre xanh xanh Việt Nam

Mưa bão rơi thẳng hàng

Một tiếng kêu nhẹ nhàng vui tươi, một tiếng “thân thiết” chân thành và sâu lắng của người con phương xa. Lời thơ trở nên mềm mại, hấp dẫn, dạt dào cảm xúc. Hành trình từ Nam ra Bắc chỉ một lần gặp Hồ Chí Minh. Dù Bác không còn nữa nhưng nhà thơ không dùng từ “viếng” mà dùng từ “vào thăm” thật nhẹ nhàng, xúc động.

Điều này cho thấy mặc dù là lãnh tụ nhưng Hồ Chí Minh rất gần gũi với nhân dân. Người đọc có cảm giác Bác như đang sống mãi, chỉ là Bác đang ngủ một giấc dài thật dài.

Khung cảnh hiện ra trước mắt khi nhà thơ đến đây là một hàng tre “mọc”. Cây tre là hình ảnh quen thuộc, gần gũi với đất nước Việt Nam, tượng trưng cho sự dẻo dai, kiên cường, tinh thần bất khuất của cả dân tộc ta. Dù mưa bão, hàng tre vẫn kiên cường, dũng cảm, bất khuất như tinh thần quật cường của dân tộc ta.

Viễn Phương có tấm lòng kính yêu và ngưỡng mộ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác mượn hình ảnh “mặt trời” tượng trưng cho Bác Hồ vĩ đại luôn sống mãi với non sông đất nước:

Ngày qua ngày nắng qua lăng

Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên

Rõ ràng hình ảnh “mặt trời” trong hai câu thơ có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Một mặt trời hiện thực của thiên nhiên, một mặt trời có giá trị ẩn dụ, tượng trưng cho vị cha già dân tộc. Hình ảnh ẩn dụ này đã tăng sức biểu cảm, phần nào làm sắc nét thêm tình yêu thương, kính trọng mà Viễn Phương dành cho ông. Mặt trời luôn hiện hữu soi sáng thế gian cũng như Hồ Chí Minh sống mãi trong lòng nhân dân.

Hòa vào dòng người đến viếng Bác, Viễn Phương xúc động nghẹn ngào:

Ngày qua ngày dòng người bước đi trong tình yêu

Hết bảy mươi chín mùa xuân cúng dường

Cuộc đời là hữu hạn, thời gian là vô hạn. Sự ra đi của ông để lại bao tiếc thương cho dân tộc. Lòng từ bi đó kết thành những “ tràng hoa” cho Ngài. “Bảy mươi chín mùa xuân” là bảy mươi chín năm Người đã sống và cống hiến cho dân tộc. Hồ Chí Minh là mùa xuân lớn của đất nước ta, của những mảnh đời bất hạnh trong xã hội.

Tác giả đang nhìn Bác, có một niềm xúc động sâu xa:

Bác đang ngủ yên trong lăng

Giữa vầng trăng sáng dịu dàng

Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói trong tim

Bác vẫn nằm đây, giữa thủ đô nắng ấm, giữa hàng triệu trái tim nhân dân đang hướng về Người. Nét “hiền lành” trên khuôn mặt con người là biểu tượng cho những gì đẹp đẽ, thuần khiết nhất của một đời người. Dù nỗi đau còn đó, mất mát còn đó nhưng Tổ quốc luôn nhớ về các anh.

Có lẽ khổ thơ cuối người đọc sẽ bối rối trước mong ước của Viễn Phương:

Vào Nam nước mắt rưng rưng

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?

Bạn muốn trở thành bông hoa thơm ở đâu?

Muốn làm nơi này vị tre

Những vần thơ giản dị, chân chất ấy khiến người đọc “rơi nước mắt”. Giây phút tác giả sắp ra đi trở về phương Nam là giây phút nhiều cảm xúc đọng lại nhất. Từ “muốn” như muốn nhấn mạnh niềm khao khát, mong muốn được ở bên Bác của tác giả. Những lời chúc đơn giản, giản dị nhưng chứa đầy cảm xúc.

Quả thật, bài thơ “Viếng Bác” của Viễn Phương khiến người đọc không cầm được nước mắt trước tình cảm kính yêu của một người con đối với Bác. Qua đó ta thấy được vị trí của Bác Hồ trong lòng nhân dân quan trọng như thế nào.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 20

Viếng Lăng Bác của Viễn Phương là một trong những bài thơ gây xúc động nhất. Bài thơ ra đời trong giây phút xúc động, lời thơ là lời tri ân chân thành và vô hạn của nhà thơ cũng như của đồng bào Nam Bộ đối với vị lãnh tụ, vị cha già yêu nước.

Lần đầu tiên nhà thơ được ra Bắc thăm Bác khi vào Lăng viếng Bác.

“Em vào Nam viếng lăng Bác”

Đoạn thơ chất chứa bao cảm xúc của người đến viếng lăng Bác. Đoạn thơ còn chứa đựng cảm xúc về thăm Bác tưởng như ngày hội thống nhất Bác đã không còn, nhà thơ không nói thăm mà nói thăm vì không muốn nghĩ Bác đã đi xa. Mọi người đến thăm Bác – thăm Bác là lẽ đương nhiên. Ấn tượng đậm nét đầu tiên về cảnh qua nơi Bác yên nghỉ là hàng tre trong sương sớm với bao sức sống.

“Thấy trong sương những hàng tre bạt ngàn

Ôi!xanh xanh tre xanh Việt Nam

Mưa bão rơi thẳng hàng”

Xa xa là những hàng tre, một hình ảnh quen thuộc ở khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Tre kiên cường, bất khuất, tre là biểu tượng cao đẹp về sự dẻo dai, kiên cường của con người Việt Nam trước mọi phong ba, lửa đạn của quân thù. Hàng tre kiên trung anh hùng nay đang đứng bên Người che chở cho những người đang say giấc, niềm xúc động dâng trào khiến nhà thơ phải thốt lên “Ôi hàng tre xanh Việt Nam”

Thể hiện sự thiêng liêng, kính trọng và tự hào vì cây tre – Hồ Chí Minh từ lâu đã có mối quan hệ gắn bó, thống nhất nội tại, trở thành biểu tượng quen thuộc với nhân dân thế giới.

Khổ thơ thứ hai có hai câu đối xứng chứa hai hình ảnh thực và ẩn dụ. Hình ảnh thực là hình ảnh mặt trời thiên nhiên rực rỡ muôn đời, còn hình ảnh ẩn dụ mặt trời trong lăng rất đỏ chính là Bác Hồ. Nếu như mặt trời của thiên nhiên đem lại ánh sáng và hơi ấm sự sống cho muôn loài thì Bác Hồ chính là mặt trời đem lại sự đổi thay của dân tộc. Hai hình ảnh được ghép nối và tỏa sáng cho nhau.

Cũng như vậy, nhà thơ lấy hình ảnh thực của đám đông. Mỗi ngày nối tiếp nhau, họ tạo thành hình ảnh “Đi trong thương nhớ, kết hoa”, những so sánh vừa đẹp vừa lạ. Đoàn người kết thành một chuỗi hoa bất tận dâng người 79 mùa xuân. Ngôn từ tinh tế, hình ảnh đẹp thể hiện tình cảm nhớ nhung da diết của người nông dân Nam Bộ với Bác Hồ.

Nhà thơ diễn tả cảm giác bùi ngùi khi vào lăng. Khung cảnh trang nghiêm, tĩnh mịch dường như nối kết cả không gian và thời gian và người nằm đó thật bình yên.

“Bác ngủ yên”

Hình ảnh Bác “giấc ngủ bình yên, giữa một vầng trăng sáng dịu dàng, câu thơ thực và mộng gợi bao liên tưởng. Từ hình ảnh vầng trăng gắn liền với thơ Bác, bao bài ca tràn ngập ánh trăng. Với hình ảnh vầng trăng, nhà thơ cũng muốn để tạo nên hình ảnh Bác – Mặt trời – Mặt trăng – Bầu trời xanh tuyệt vời.

Nếu mặt trời là biểu tượng của ánh sáng lý tưởng, thì mặt trăng là tâm hồn trong sáng, cao đẹp là tình yêu thương dịu dàng của Bác Hồ dành cho mọi người. Vẫn biết Bác Hồ sống mãi với đồng bào cả nước như mặt trời, mặt trăng và bầu trời xanh nhưng sao lòng vẫn đau đáu một nỗi niềm. Đau đớn trước một sự thật không thể phân biệt là Bác đã đi xa.

Cảm xúc nhân dân trào dâng sau giây phút ngắn ngủi bên bạn, ngày mai trở về phương Nam, ước nguyện chân thành trào dâng trong hồn thi nhân.

“Ngày mai vào Nam sẽ chan chứa nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?

Bạn muốn trở thành bông hoa thơm ở đâu?

Muốn làm nơi này vị tre”

Đó là cảm xúc rất thực không chỉ ở nhà thơ mà của bất cứ ai đến viếng Bác. Nước mắt không phải là nước mắt mà tuôn trào, đó là cảm xúc mãnh liệt, chính từ cảm xúc nhớ nhung vô hạn ấy mà lời thơ càng trở nên trong trẻo để gửi gắm bao ước nguyện “Muốn làm con chim hót, bông hoa, cây trúc”. Tất cả những mong ước của nhà thơ đều hội tụ ở một điểm, đó là được ở gần Bác.

Bài thơ “Viếng lăng Bác” đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc sâu lắng, thiết tha. Bằng nhiều hình ảnh ẩn dụ độc đáo và biện pháp tu từ độc đáo, nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện một hồn thơ rất riêng. Qua bài thơ Viếng Lăng Bác, Viễn Phương đã thay mặt nhân dân miền Nam nói riêng và nhân dân cả nước nói chung dâng Bác với tình cảm chân thành và lòng tôn kính thiêng liêng.

Bài thơ sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc và nhắc nhở các thế hệ mai sau kế thừa những thành quả rực rỡ của cách mạng một lối sống xứng đáng với sự hy sinh của một con người vĩ đại nhưng rất đỗi giản dị. – Hồ Chí Minh, người đã sống một cuộc đời cao đẹp.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 21

Bác Hồ mất là một sự kiện trọng đại làm xúc động hàng triệu trái tim Việt Nam và thế giới, làm cả thế giới xúc động: “Trời rơi lệ, đời đổ mưa”. Hầu như các nhà thơ đều làm thơ khóc Bác, viếng Bác. Trong đó có nhà thơ Viễn Phương với bài Viếng lăng Bác.

Bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương không chỉ là một bài thơ viếng hay khóc thương Bác bình thường. Bác mất năm 1969. Mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất. Năm 1976, Viễn Phương vào thăm lăng. Như vậy, viếng Bác, khóc Bác cũng là viếng Bác. Cả ba bước vào một chuyến đi. Một cuộc hành hương mà những người đồng bào miền Nam đã chờ đợi, mong mỏi và chiến đấu hàng chục năm qua.

Mở đầu bài thơ, tác giả tự giới thiệu: “Tôi ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Cách xưng hô thật hồn nhiên mà chân thành. Bác là cha nên bác gọi bác là con. Nhưng người con ở Nam Bộ mang sắc thái thiêng liêng – người con đã đi xa ngày cha mất. Miền Nam là nơi đi trước, đi sau, là nơi Bác Hồ hằng mong mỏi. “Tôi nhớ miền Nam, nhớ nhà da diết. Miền Nam nhớ cha Bác Hồ”.

Từ xa nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre đã vô cùng xúc động:

“Thấy trong sương những hàng tre bạt ngàn

Ôi tre xanh xanh Việt Nam

Mưa bão rơi thẳng hàng”

Với từ con, với hình ảnh hàng tre, nhà thơ đã tạo nên một không khí thật gần gũi, thiêng liêng nơi lăng Bác.

Không gian quanh lăng Bác trở thành một không gian đặc biệt để tưởng nhớ. Không gian kỉ niệm ấy dường như dài vô tận với thời gian, ngày ngày lặp đi lặp lại thành lời. Dòng thời gian liên tục. Dòng người cũng không ngừng. Người mang hoa, người làm hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân, dâng một đời chiến đấu hy sinh vì dân vì nước.

Tình cảm đối với Bác dồn nén trong khổ thơ đầu được thể hiện một cách kín đáo qua việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ: “Thấy trong lăng một mặt trời rất đỏ”. So sánh Bác với mặt trời, nhà thơ muốn khẳng định Bác là ánh sáng dẫn đường cho dân tộc Việt Nam.

Nhưng phải đến khổ thơ thứ ba, tình cảm ấy mới được bộc lộ trực tiếp. Đó chính là niềm kính yêu và nỗi đau khôn nguôi khi nhìn thấy Bác nằm trong lăng: “Sao tôi nghe nhói đau trong tim? Đây là một cú sốc gây sốc. Tất nhiên, trong nhận thức lý tính của chúng ta, Bác Hồ vẫn còn sống. Nhưng đây là nỗi đau nhói từ tận đáy lòng. Bác chết thật rồi. Bác không gặp được những người con miền Nam mà Bác hằng mong mỏi.

Khổ thơ cuối là cảm nghĩ trước khi ra đi:

“Ngày mai vào Nam sẽ chan chứa nước mắt

Muốn làm nơi này vị tre”

Nghĩ đến ngày mai vào Nam, nỗi nhớ rưng rưng. Không rưng rưng, ​​rưng rưng mà rưng rưng. Một cảm xúc trào dâng mãnh liệt. Lòng xót xa như dồn nén trong tim, làm nảy sinh bao khát khao. Ước mong được làm tiếng chim hót quanh lăng để lại chút niềm vui tiếng cười với một người đã hy sinh cả gia đình và tình yêu cho đất nước.

Ước nguyện là làm một bông hoa tỏa hương quanh lăng. Một mùi hương như thật như hư hư đâu đó thoang thoảng. Ước làm một cây tre trung thành quanh lăng canh giấc ngủ cho người. Tất cả tâm nguyện đều dồn về một điểm, muốn mãi mãi được ở gần Bác, không rời.

Tóm lại, bằng những hình ảnh ẩn dụ đầy ý nghĩa, bằng giọng thơ trang nghiêm, thành kính, bằng tình cảm hết sức chân thành, nhà thơ Viễn Phương đã thay cho mọi người nói lên niềm xúc động thiêng liêng, lòng biết ơn vô hạn. đối với Bác Hồ – vị cha già của dân tộc.

Bài văn về bài thơ Viếng lăng Bác – Văn mẫu 22

“Miền Nam nhớ Bác nhớ cha” – câu ca này đã nói lên tình cảm rất chân thành của đồng bào miền Nam đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như của đông đảo đồng bào miền Nam khi đến viếng lăng Bác. Nhà thơ Viễn Phương đã bày tỏ lòng kính yêu thiết tha với Chủ tịch Hồ Chí Minh qua bài thơ Viếng Lăng Bác. Tình cảm của nhà thơ thể hiện trong bài, theo em, không chỉ của riêng tác giả mà còn là tình cảm chung của toàn thể đồng bào miền Nam đối với Bác.

Bài thơ “Viếng lăng Bác” có thể là tiếng nói của đồng bào miền Nam đối với Bác mà nhà thơ Viễn Phương đã thay mặt họ nói lên. Đoạn thơ cho ta thấy tình cảm yêu thương nồng nàn của đồng bào miền Nam đối với Bác Hồ. Tình cảm thiết tha ấy được thể hiện trong mạch cảm xúc khi ở ngoài lăng, khi vào lăng và cuối cùng là khi ra về. Tình yêu ấy được thể hiện rất tự nhiên và chân thành bằng những ngôn từ giản dị nhưng đầy cảm xúc.

Cảm xúc của tác giả được thể hiện trong mạch cảm xúc khi ở ngoài lăng, khi vào lăng và khi ra về. Những lời đầu tiên của tác giả với Bác Hồ là một lời thông báo nhưng cũng rất “thân mật và gần gũi:

“Em vào Nam viếng lăng Bác”

Với cách xưng hô thân mật khiến ta có cảm giác như người con về thăm cha, tác giả đã cho thấy vị trí của Bác Hồ trong lòng đồng bào miền Nam. Bác như người cha chung, người cha vĩ đại của cả dân tộc ta. Khi vào thăm lăng Bác, cảm nhận của tác giả là hình ảnh hàng tre thật thân thuộc, gần gũi. Hình ảnh hàng tre vừa kiên cường vừa bình dị, gần gũi là hình ảnh đầu tiên bắt gặp khi vào thăm lăng Bác và cũng là hình ảnh đầu tiên gợi lên những cảm xúc trong sáng nhất.

Cảm xúc của tác giả khi đứng ngoài lăng khi nhìn thấy dòng người xếp hàng vào viếng Bác là tình cảm biết ơn, biết ơn vô hạn đối với Bác. Khi ở lăng Bác, trong không khí tĩnh lặng, thời gian và không gian như ngưng đọng lại, tác giả vô cùng đau xót trước sự ra đi của Bác. Nỗi đau nhức nhối trong tim là nỗi đau mất mát của hàng triệu người dân Việt Nam cũng như của cả đồng bào miền Nam Việt Nam.

Khi Bác ra đi, tác giả thể hiện sự luyến tiếc, muốn ở lại mãi bên lăng Bác. Theo mạch cảm xúc đó, tình cảm tha thiết của tác giả được thể hiện một cách chân thành, tự nhiên. Thông qua những hình ảnh thơ rất đẹp và độc đáo, tình cảm của người dân Nam Bộ cũng được tác giả thể hiện rất thành công:

“Ngày ngày nắng qua lăng

Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên.”

Hình ảnh “mặt trời” trong hai câu thơ trên đã có sự chuyển nghĩa, tạo nên một hình ảnh thơ đầy nghệ thuật. Nếu ở câu thơ đầu, mặt trời là “thiên thể lớn nhất” của vũ trụ, có vai trò quyết định sự sống của cả nhân loại thì ở câu thơ thứ hai, Hồ Chí Minh là mặt trời. rất tươi, rất đỏ, rất thiêng đối với người Việt Nam.

Bác là người đã khai sáng và hướng dẫn nhân dân Việt Nam đến độc lập, tự do. Bác Hồ được ví như một thiên thể vĩ đại trong vũ trụ bao la. Với hình ảnh này, tác giả đã bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất đối với Bác Hồ. Tấm lòng ấy được thể hiện sâu sắc qua hình ảnh vòng hoa. Đây là hình ảnh ẩn dụ, thể hiện từng dòng người vào lăng viếng Bác, mỗi người như một bông hoa, kết lại dâng lên Bác lời tri ân chân thành nhất:

“Tôi nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa trăng sáng dịu hiền”

Bác đã ra đi nhưng trong lòng mỗi người dân Việt Nam Bác vẫn còn sống, tình yêu dân tộc của Bác như còn mãi. Vầng trăng sáng ấy thật trong trẻo, thật tinh khiết gợi trong lòng Bác và cũng gợi trong những vần thơ đầy ánh trăng của Bác. Nỗi đau mất Bác Hồ trong lòng mỗi người Việt Nam nói chung và trong lòng mỗi người dân miền Nam nói riêng phần nào được xoa dịu khi Bác yên nghỉ trong một không gian thật yên tĩnh.

Tình cảm của người dân Nam Bộ theo tôi được thể hiện rõ nét nhất ở khổ thơ cuối, thể hiện qua mong muốn được hoà vào cảnh vật quanh lăng để được ở bên Bác hàng ngày. Mong ước đó được thể hiện rất giản dị bằng hình ảnh hoa lá, chim muông, tre trúc. Mong ước của tác giả chỉ đơn giản là được ở bên Bác hàng ngày nhưng đó là niềm mong ước cháy bỏng, chân thành và tha thiết nhất.

Cảm xúc mãnh liệt của tác giả lúc này trào dâng, được thể hiện rất mạnh mẽ: Mai về Nam nước mắt lưng tròng. Riêng những giọt nước mắt ấy cũng đủ nói lên tất cả, đủ nói lên tấm lòng của những người con đất Việt. Những giọt nước mắt đó là chân thành và thậm chí còn mạnh mẽ hơn bất kỳ lời nói nào.

Mong muốn của tác giả được nhấn mạnh khi tác giả sử dụng phép điệp ngữ để mở đầu ba câu thơ cuối bài thơ. Hình ảnh hàng tre được lặp lại ở cuối bài tạo nên một kết cấu đầu cuối tương ứng, hoàn thiện cảm xúc của bài thơ, thể hiện trọn vẹn nỗi lòng của tác giả.

Sử dụng những hình ảnh thơ độc đáo, thể hiện tình cảm tha thiết, chân thành bằng lời thơ giản dị, chân chất, nhà thơ Viễn Phương đã thay mặt hàng nghìn người dân Nam Bộ nói lên tình cảm yêu mến, kính trọng. lòng biết ơn sâu sắc nhất, chân thành nhất tới Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đoạn thơ giàu cảm xúc và để lại ấn tượng cho người đọc những tình cảm rất chân thành, giản dị.

*****

Bên trên là 22 bài văn mẫu Nghị luận về bài thơ Viếng Bác Hồ lớp 9 Được giáo viên trường THPT Lê Hồng Phong biên soạn ngắn gọn nhất và hay nhất. Hi vọng dựa vào đây các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới để hoàn thành bài tập làm văn của mình với số điểm cao nhất.

Đăng bởi: THPT Lê Hồng Phong

Thể loại: Giáo dục

Related Posts

đề thi học kì 2 toán 7

Bạn đang xem bài viết ✅ Bộ đề thi học kì 2 môn Toán 7 năm 2022 – 2023 sách Đề thi cuối học kì 2 môn…

đề thi thử thpt quốc gia 2020 môn anh

MAX ĐIỂM PHẦN 5 TOEIC – TOPIC 5 Buổi 2 MAX ĐIỂM PHẦN 5 TOEIC – TOPIC 5 Buổi 2 22 đề thi thử THPT Quốc gia…

giàu sang hay nghèo khó dù có cao sang thấp hèn

Khám phá bài viết bói giàu nghèo với nội dung tốt nhất. Muốn Biết May Mắn, Giàu Sang, Nghèo Cả Đời Chỉ Cần NHÌN CỔ TAY 3…

đông máu và nguyên tắc truyền máu

pgdsonha.edu.vn giới thiệu Lời giải Vở bài tập Sinh học lớp 8 bài 15: Đông máu và nguyên lý truyền máu lớp 8 chi tiết và chính…

thử thách cực hạn nhậm gia luân lưu vũ ninh

Nếu bạn đang tìm kiếm Top 10 bộ phim Trung Quốc dự kiến ​​phát sóng năm 2023, hãy để Nội thất UMA gợi ý cho bạn qua…

toán lớp 5 ôn tập về giải toán

4.8/5 – (68 phiếu) Mỗi năm học cuối cấp của mỗi học sinh khiến cha mẹ và thầy cô lo lắng, trăn trở. Làm thế nào để…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *