Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua một số tác phẩm
Hình ảnh về: Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua một số tác phẩm
Video về: Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua một số tác phẩm
Wiki về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua một số tác phẩm
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua một số tác phẩm -
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca. Mỗi nhà thơ, nhà văn đều mang đến những góc nhìn, ngòi bút đồng cảm riêng cho những thân phận phụ nữ khác nhau. Tuy ở mỗi thời đại khác nhau, người phụ nữ lại có những vẻ đẹp khác nhau nhưng nhìn chung họ đều phải chịu đựng những bi kịch của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ phong kiến. Hãy cùng thtrangdai.edu.vn tìm hiểu, phân tích và cảm nhận thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua bài viết dưới đây.
Bối cảnh xã hội phong kiến cổ đại
Xã hội Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ 19 có nhiều biến đổi mạnh mẽ về cơ chế xã hội, kinh tế, giáo dục và văn hóa. Một trong những thay đổi quan trọng nhất là sự xuất hiện của chế độ phong kiến cùng với hệ tư tưởng Nho giáo. Hệ tư tưởng Nho giáo tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống, đặc biệt là người phụ nữ.
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ phải chịu nhiều bất công của quan niệm “trọng nam khinh nữ”. Họ không có quyền tự quyết định cuộc sống của mình.
Mọi giá trị, nhân sinh quan của người phụ nữ đều gói gọn trong “tam tòng, tứ đức”. Phụ nữ không được học hành, không được tham gia bàn bạc, quyết định mọi việc từ lớn đến nhỏ, từ đời đến việc nước. Có thể thấy, thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến bị gò bó cả về ý thức lẫn thể xác.
Vì thế, cuộc sống của họ chỉ quẩn quanh trong phòng, quanh chuyện “cầm, thi, thi, họa” hay “nữ công gia chánh”. Những ràng buộc về quan niệm xã hội đã khiến người phụ nữ rơi vào nhiều bi kịch. Đó cũng là lý do quan trọng khiến văn học thời kỳ này thường đề cập đến thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Tìm hiểu thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua một số tác phẩm
Nhắc đến thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, nguyên nhân chính dẫn đến bi kịch cuộc đời người phụ nữ chính là tư tưởng trọng nam khinh nữ, “trọng nam khinh nữ”. Trong xã hội, điều này được hiện thực hóa thông qua những tiêu chuẩn khắt khe dành cho phụ nữ. Trong văn học, điều đó được thể hiện qua những vần thơ đau xót, chua xót về thân phận người phụ nữ của các tác giả văn học.
Số phận người phụ nữ khi là nạn nhân của xã hội phong kiến
Qua việc nghiên cứu thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, chúng ta thấy rằng họ có thể làm được nhiều việc lớn cho đất nước và xã hội. Nhìn lại lịch sử, chúng ta còn thấy được những chiến công, sự hy sinh anh dũng của biết bao nữ anh hùng. Nhưng trong quan niệm Nho giáo, xã hội không đánh giá cao vai trò của người phụ nữ.
Họ chỉ sống như những cái bóng bên cạnh người đàn ông. Họ dù tài giỏi đến đâu, thông minh đến đâu cũng không có cơ hội thăng tiến, bởi “nhất nam viết, thập nữ viết”. Hay chính Tú Xương cũng cảm thấy bất lực trước hoàn cảnh hiện tại của mình và hoàn cảnh của người vợ. Phân tích bài thơ Thương vợ của Tú Xương, ta thấy bà Tú vất vả như thế nào:
“Quanh năm buôn bán trên dòng sông mẹ
Nuôi năm đứa con với một người chồng
Lặn lội thân cò nơi vắng
Ỉ eo con nước ngày đông
Một duyên hai duyên
Năm nắng mười mưa, dám quản công.”
(Yêu vợ)
Cay đắng, đắng cay hơn khi bà Tú mưu sinh không chỉ cho “năm người con” mà còn cho chồng. Tú Xương yêu vợ và cũng ý thức được hoàn cảnh của mình – một ông quan ở nhà “ăn lương vợ”.
Nhưng ngặt nỗi vì định kiến xã hội, anh không thể làm được gì, không thể làm thầy giáo vì không hợp với tính cách của mình, không thể giúp đỡ công việc kinh doanh của vợ, bởi định kiến trói buộc người thư sinh. Càng nhận thức rõ thực tại càng thấy bất lực, một vòng bi kịch luẩn quẩn không thể thoát ra. Khi phân tích thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua hình tượng bà Tú, em không khỏi nghẹn ngào.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến với tư tưởng trọng nam khinh nữ
Từ tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã dẫn đến nhiều bi kịch nối tiếp nhau về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Sự bất công lên đến đỉnh điểm khi người phụ nữ không kiểm soát được cuộc sống của mình. Họ không có quyền quyết định làm chủ cuộc sống của chính mình, ngay cả hạnh phúc trong đời – tình yêu và hôn nhân, họ cũng không quyết định được. Đó là lời than thở của người phụ nữ trong ca dao
Thân em như lụa đào
Lênh đênh giữa chợ biết vào tay ai
(Dân gian)
Mở đầu “thân em” là mô típ quen thuộc trong ca dao, gợi cùng một âm điệu buồn thương. Cụm từ “thân em” chỉ thân phận người phụ nữ. Đây cũng là lời chung của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Hình ảnh so sánh “tấm lụa đào” thể hiện sự cảm nhận về vẻ đẹp, tuổi trẻ và giá trị bản thân của người con gái.
Từ láy gợi tả sự chuyển động trong gió, và đó cũng là số phận của người phụ nữ mong manh, bấp bênh, không có điểm tựa vững chắc. “Chợ” là nơi người qua lại, người tốt kẻ xấu. Đáng tiếc, một tấm lụa đẹp, dù có giá trị đến đâu mà không chọn được điểm đến thì mãi mãi chỉ có thể là món hàng chờ người mua sắm.
Phân tích thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, ta thấy Hồ Xuân Hương đã so sánh họ với hình ảnh con thuyền.
Cây bách buồn vì số phận của nó,
Giữa dòng chán chường trôi.
Phía sau ngăn tình yêu dường như tươi sáng,
Nửa đường gió ba luống nhấp nhô.
Hãy cầm lái, bất kể ai đang chờ dừng lại,
Tiếng ai xuôi thác ghềnh.
Những người đến thăm hội đồng quản trị rất tận tâm,
Mệt mỏi vì ôm lấy sự hối hả và nhộn nhịp.
(Tự tình III)
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến được ví như chiếc thuyền kia. Chỉ có thể bất lực buông xuôi nhìn dòng đời vội vã.
Từ đó nói lên một cách thấm thía nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, thân phận bị lệ thuộc, giá trị không ai biết đến. Dù vất vả, chịu đủ mọi cực khổ nhưng người phụ nữ làm việc gì cũng không được đánh giá cao – đó là những trách nhiệm mà người phụ nữ phải thực hiện.
Đồng cảm với điều đó, các tác giả trung đại đã ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ. Nguyễn Dữ ca ngợi tấm lòng chung thủy của Vũ Nương.
Khi tìm hiểu về giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều, ta thấy Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Kiều với vẻ đẹp của chữ “hiếu”: “Làm con trước hết phải đền ơn sinh thành”, lòng thủy chung của nàng với chàng Kim. Trọng. Hay ở góc nhìn của Hồ Xuân Hương, thân phận người phụ nữ có nét tương đồng với hình ảnh “bánh bèo”.
Cơ thể tôi trắng và tròn
Bảy nổi chìm theo nước
Rắn cắn nát cả tay người nặn
Nhưng tôi vẫn giữ tấm lòng của mình.
(Bánh trôi)
Phân tích bài thơ Bánh trôi nước ta thấy Hồ Xuân Hương không miêu tả dửng dưng, lạnh lùng mà luôn mở lòng, hóa thân vào nhân vật để tiếp cận, thấu hiểu và chia sẻ. Trong miêu tả của nhà thơ, chiếc bánh trôi dường như đã trở thành một chủ thể nhỏ bé, gần như tiêu cực với nhịp sống hối hả.
Sự xuất hiện của thành ngữ “bảy nổi ba chìm” đã gợi tả thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đó là một cuộc đời thăng trầm, gắn với hình ảnh câu thơ trên gợi lên số phận nhỏ bé, bất công của người phụ nữ.
Điều này đã được nói đến rất nhiều trong ca dao. Nhưng nếu ca dao chỉ dừng lại ở chỗ ca thán thân phận thì Hồ Xuân Hương lại thể hiện một phong cách mạnh mẽ đầy tự giác.
Phụ nữ không làm chủ được cuộc sống của chính mình, họ đành cam chịu số phận. Điều duy nhất họ có thể kiểm soát là trái tim của họ. Lời khẳng định mạnh mẽ đó được thể hiện qua kết cấu tương phản “Tuy…nhưng”. Dù trong tay người nhào nặn, trong hoàn cảnh éo le, dung mạo có thể thay đổi nhưng tấm lòng chân thành sẽ không bao giờ thay đổi.
Đặt trạng thái “rắn” bên ngoài đối lập với “lòng son” bên trong, nhà thơ khẳng định: người phụ nữ sẽ mãi chung thủy trước mọi giông bão của cuộc đời. Là câu nói thể hiện niềm tự hào về phẩm chất, lòng thủy chung của người phụ nữ. Chính điều này thể hiện khát vọng giữ gìn và vươn tới cái đẹp, cái thiện của người phụ nữ.
Bên cạnh đó, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” dẫn đến một bi kịch khác của người phụ nữ – bi kịch của mối tình dang dở, bi kịch của kiếp “phu quân” và cũng là một trong những bi kịch của thân phận. người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Thực trạng “trai năm thê bảy thiếp, gái chuyên chuyên một chồng” đè nặng khiến người phụ nữ không thể có được một tình yêu trọn vẹn, trọn vẹn.
Họ đã không có quyền quyết định theo trái tim mình, giờ đây lại càng đau lòng hơn khi phải san sẻ tình yêu của mình cho người khác. Trong tình yêu, ai cũng muốn ích kỷ không muốn chia sẻ dù chỉ một “mảnh nhỏ tình yêu”. Nhưng người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chia sẻ chồng cho người khác.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến khi đã làm vợ làm chồng
Trong cuộc đời mình, Hồ Xuân Hương đã đôi lần thực sự làm nên chuyện, và nữ sĩ sẽ còn cay đắng hơn bởi bà là một người có tài năng cũng như ý thức về giá trị bản thân sâu sắc. Nữ ca sĩ cay đắng lên tiếng, có thể là vì thân phận của chính cô và những người đồng cảnh ngộ.
Kẻ đắp chăn kẻ lạnh lùng
Chém cha cả đời lấy nhau
(Có lý)
Một từ “chém cha” thốt ra như chất chứa bao nhiêu uất ức, đau đớn và đủ cho thấy “đời chung” đối với người phụ nữ bất công, cay đắng đến nhường nào. Cảm giác độc thân thật khó tả.
Canh khuya vang tiếng trống canh gác.
Trơ mặt hồng với nước non.
Một chén hương mang đến, say lại tỉnh,
Trăng khuyết, khuyết, chưa tròn.
Khắp mặt đất, rêu mọc thành cụm,
Sụp đổ chân trời, đá vài tảng đá.
Mệt mỏi của mùa xuân và mùa xuân một lần nữa,
Một mảnh tình sẻ chia bé nhỏ.
(Tự tình II)
Nỗi cô đơn ấy bủa vây cả không gian và thời gian. Hạnh phúc tưởng chừng sẽ đến nhưng cuối cùng chỉ là “vầng trăng khuyết chưa tròn”. Thời gian trôi đi, tuổi thanh xuân của một người phụ nữ cũng phai nhạt theo năm tháng, nhưng cuối cùng chỉ còn lại một mình, lẻ loi giữa không gian. Có thể thấy, thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến thật đáng buồn.
Cô đơn, chua xót nhìn tuổi xanh qua đi, nhìn hình ảnh em tàn phai – “mặt hồng trơ với nước non”. Mượn men rượu để quên đi nỗi buồn hôm nay, nhưng men rượu chỉ làm lòng cô thêm quặn thắt. Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến đã phải chịu cảnh chung một đời chồng và chia sẻ những mối tình đau thương.
Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến khi họ là người tài sắc vẹn toàn
Trong văn học trung đại Việt Nam, các tác giả cũng hướng ngòi bút của mình đến thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến - những con người “tài sắc vẹn toàn” bị cuộc đời vùi dập. Đây cũng là nhân vật mà Nguyễn Du đã dùng hết tài năng và tấm lòng để tạo nên. Những hình ảnh ấy cứ trở đi trở lại trong thơ Nguyễn Du.
Đó là Tiểu Thanh trong “Đọc Tiểu Thanh” của Nguyễn Du. Đọc Tiểu Thanh Ký khắc họa rõ nét cuộc đời của một cô tiểu thư tài sắc vẹn toàn, làm thiếp cho người khác và sống một cuộc đời buồn bã đầy uất ức. Chính cuộc đời của Tiểu Thanh đã khiến Nguyễn Du nảy sinh niềm thương cảm vô hạn đối với số phận nghiệt ngã và tiếng lòng ấy được chuyển thành thơ.
Thành phố hoa cỏ Tây Hồ
Điếu thuốc đơn đắt nhất nhưng chỉ có chữ cái
(Đọc ký Tiểu Thanh)
Khi phân tích chuyên khảo của Nguyễn Du, ta nhận thấy “vườn hoa” ở câu đầu là vườn hoa, tượng trưng cho quá khứ và thời thanh xuân tươi đẹp.
‘Tân thành Khu’ nghĩa là vạn vật hóa thành hoang, là sự chuyển mình của giai đoạn trước cuộc sống tấp nập. Ở câu đầu, Nguyễn Du đã mượn hình ảnh không gian nơi Tiểu Thanh từng ở để nói lên cảm nhận của bản thân về những chuyển mùa.
Tây Hồ là một nơi sơn thủy hữu tình nhưng lại trở thành một gò đất hoang vu vắng vẻ bởi có một người con gái đã mãi mãi chôn vùi tuổi thanh xuân của mình tại đây. Sự đổi thay sóng gió của cuộc đời không ai có thể lường trước được, cảnh đẹp ngày xưa giờ chỉ còn là phế tích, chỉ còn lại dấu ấn của một thời đã qua.
Từ ‘Single’ có nghĩa là duy nhất, một mình. Câu nói ‘Một chữ duy nhất’ là sổ, là giấy thừa. Trong không gian điêu tàn, Nguyễn Du hiện lên với dáng vẻ ung dung, đồng thời thể hiện một nét trầm tư sâu lắng trong nét vẽ đơn lẻ.
Nhà thơ một mình buồn bã đọc sách về cuộc đời Tiểu Thanh đáng thương. Một mình trước sự bất lực của Tiểu Thanh về số phận của chính mình.
Sự tồn tại của người con gái tài hoa một thời chỉ được biết qua một cuốn sách, những gì còn lại khiến anh không khỏi xót xa cho cô.
Xưa kia Tiểu Thanh luôn lẻ loi một mình cho đến lúc qua đời, nay Nguyễn Du cũng một mình đến thăm nàng bên cửa để trình bày sự hiểu biết thâm sâu của Nguyễn Du với nàng. Đoạn thơ là sự giao cảm giữa hai tâm hồn đơn côi. Thời gian và không gian không thể tách rời trái tim “Đồng tiếng, đồng khí, đồng thế”.
Nguyễn Du khóc cho Tiểu Thanh cũng là khóc cho chính số phận cay đắng, bất hạnh của mình. Đây cũng là số phận điển hình của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Thương cho những khuôn mặt của những con người dửng dưng với thế gian, những con người hiểu rất rõ giá trị của mình nhưng lại bất lực trước những chông gai trên đường đời. Ta thấy rõ sự khắc nghiệt của xã hội đối với những người tài giỏi và khát vọng hạnh phúc của họ. Như những câu thơ đau thương mà cụ Nguyễn Du đã từng viết trong Truyện Kiều. Thúy Kiều là người con gái tài sắc vẹn toàn
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So mặt là lưng tài hơn
Mùa thu và nước xuân sơn
Hoa ghen thua tình liễu bớt xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Đã đòi sắc, hai sĩ quan tài nguyên đồ họa
(Trích “Chị em Thúy Kiều”, Truyện Kiều)
Nhưng cuối cùng, trước những giông tố của cuộc đời, nàng đành phải tự tay dập tắt mối tình đầu chớm nở với Kim Trọng và bắt đầu chuỗi phiêu lưu đầy bi kịch.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến khi là nạn nhân của cuộc chiến tranh phi nghĩa
Cảm nhận cảnh ngâm của Chinh phụ ngâm, ta thấy thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến khi là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa. Nói đến chiến tranh, người ta thường quan tâm đến số phận và sự hy sinh của những người lính nơi chiến trường biên cương xa xôi, nhưng các tác giả trung đại cũng quan tâm đến số phận của những kẻ chinh phạt.
Đầu đời Lê Hiển Tông, khởi nghĩa nông dân liên tiếp diễn ra, triều đình cử binh dẹp loạn. Điều đó dẫn đến nhiều gia đình rơi vào cảnh ly tán người đi, vợ mất chồng, mẹ mất con.
Số phận và bi kịch của những con người nhỏ bé trong xã hội phong kiến đứng bên bờ vực thẳm ấy đã lay động trái tim Đặng Trần Côn. Từ đó, ông viết tác phẩm “Chinh phụ ngâm”. Kẻ chinh phục chỉ có thể hy vọng trong vô vọng, hy vọng và hy vọng một lần nữa.
“Năm dậu gà gáy sương,
Nhấp nháy và lắc lư bóng tối ở mọi phía
Thời gian dài như năm tháng,
Nỗi buồn giống như một vùng biển xa xôi.”
(Kẻ chinh phục nuốt chửng)
Phân tích đoạn Chinh phụ ngâm, ta thấy khoảng thời gian ấy được lặp đi lặp lại đều đặn, đơn điệu trong vòng hoài niệm chờ đợi từ đêm gà gáy sáng đến rạng đông. Người dịch đã sử dụng rất thành công các từ “eo ót” và “bồng bềnh”. “Thổ não” là từ tượng thanh gợi tả âm hưởng buồn, gợi cảm giác trống vắng, cô tịch. Còn “bụt phơ” là từ tượng hình diễn tả hình ảnh lưa thưa gợi cảm giác hiu quạnh, trống vắng.
Hai từ này không chỉ gợi tả được không gian mà còn gợi tả được tâm trạng, hoàn cảnh của người chinh phụ. Một đêm năm canh, người chinh phạt vì đợi người chinh phạt, nên thức suốt năm canh, nghe gà gáy mà lòng vừa sợ vừa buồn.
Tiếng “eo sèo” ấy thưa thớt, rờn rợn, thê lương, khó chịu, từng tiếng vang lên khô khốc đối lập với sự tĩnh mịch, yên ắng trong tâm trí cô. Tiếng gà trống gáy trong đêm gợi ra một không gian bao la, hiu quạnh, khiến người đàn bà đơn côi, lẻ loi trở nên nhỏ bé, đáng thương.
Nghệ thuật đi trái đẩy tâm trạng kẻ chinh phục lên một cung bậc mới, khiến nó đau đớn hơn, cô đơn hơn. Không chỉ tiếng gà trống gáy khiến nàng trằn trọc, bóng dáng “lông bông” cũng khiến kẻ chinh phụ phải suy nghĩ, trăn trở.
Trong không gian vắng lặng, thời gian đã trôi qua màn đêm, người chinh phụ ôm nỗi nhớ nhung, thấm thía về bi kịch của đời mình – về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Khung cảnh ấy, nhưng người xưa giờ có thể lại bên nhau như ngày xưa. Có thiên nhiên, có âm thanh nhưng bức tranh ấy không tươi vui mà đầy những gam màu mơ hồ, u ám như tương lai của chính cô.
Nỗi buồn của chị thấm vào cảnh hay chính cảnh đã gợi lên nỗi buồn trong lòng chị. Vắng chồng, cuộc sống của người chinh phụ tẻ nhạt, tẻ nhạt và trĩu nặng nỗi nhớ nhung đong đầy từng phút, từng giờ bủa vây.
Từ “dang dang” gợi một khoảng thời gian dài không đầu không cuối. Còn “Dâm đãng” lại gợi ra một không gian vô tận vô tận. Không gian và thời gian không còn tính cố định của không gian vật chất mà mở ra trong chiều hoài niệm.
Đó là khoảng thời gian tâm trạng của kẻ chinh phục. Bằng nghệ thuật so sánh kết hợp với phép láy lá, từng cặp nhân vật xuất hiện “đúng lúc” với “năm tháng”, “bâng khuâng” với “biển xa”.
Những ngày này, thời gian cứ chầm chậm trôi, như muốn gặm nhấm chuỗi ngày buồn bã của cô. Một ngày không còn được đo bằng vài tấc mà được tính bằng một năm “dài”.
Trong những ngày khó khăn này, người chinh phụ nghĩ về cuộc hôn nhân dang dở, về cuộc đời không được thừa hưởng hạnh phúc trọn vẹn khiến chị càng buồn và buồn hơn. Nỗi buồn của kẻ chinh phụ càng thêm triền miên, không có hồi kết.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng là Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Khi Trương Sinh nhập ngũ, một mình nàng phải quán xuyến mọi việc trong nhà để lo cho cả mẹ chồng và các con.
Cô ấy vừa là cha, vừa là mẹ một mình. Đến khi chồng quay về, những tưởng cô sẽ được thừa hưởng hạnh phúc trọn vẹn nhưng chỉ vì bản tính gia trưởng đa nghi của chồng mà cuối cùng, gia đình cô dày công vun đắp đã tan vỡ.
Phân tích nhân vật Vũ Nương, ta thấy nàng sẵn sàng dùng cái chết để chứng minh sự trong sạch, thể hiện lòng thủy chung.
Chính cuộc chiến phi lý đã khiến cô không có một gia đình trọn vẹn, khiến cô rơi vào hoàn cảnh một mình gánh vác mọi việc. Và dù chiến tranh đã kết thúc nhưng những hậu quả kéo theo vẫn không thể khắc phục được. Cuối cùng Vũ Nương lại rơi vào bi kịch. Thân phận người phụ nữ đã kênh kiệu rồi, nhưng trong những biến cố của xã hội, thân phận ấy lại càng mong manh hơn.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, mặc dù phải chịu nhiều bi kịch, cập kênh nhưng họ luôn mang trong mình một tình yêu cuộc sống cháy bỏng, một khát vọng hạnh phúc mãnh liệt. Đó là những điểm sáng trong bức tranh cuộc đời của người phụ nữ. Vì vậy, những tác phẩm viết về thân phận người phụ nữ không chỉ thấm đượm giá trị hiện thực mà còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc.
Bình luận về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua tác phẩm
Nhìn chung, thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa chịu nhiều thiệt thòi, bị áp bức, bóc lột của tầng lớp cường quyền. Thậm chí, cuộc sống của họ còn vướng vào nhiều chông gai, sóng gió. Sự bất công trong cơ chế đối kháng càng thể hiện rõ khi theo tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, phụ nữ được coi là tầng lớp cuối cùng của xã hội. Vì vậy, không có chỗ cho họ vùng lên và chiến đấu.
Thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thật xuống cấp. Họ không làm chủ được cuộc sống của chính mình, phải tuân theo những tiêu chuẩn hẹp hòi trói buộc cuộc đời họ trong những khung sắt giam hãm tâm hồn họ.
Một xã hội chỉ coi trọng “tam tòng, tứ đức” đã khiến cuộc đời mỗi người phụ nữ khi sinh ra phải luôn sống hy sinh vì người khác. Đó là cuộc sống, nhưng sống vì người khác, không phải vì mình.
Kỳ vọng từ bài viết về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến Bạn đã có được những kiến thức hữu ích cho việc học tập và nghiên cứu của bản thân. Nếu còn thắc mắc nào liên quan đến chủ đề thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đừng quên để lại bình luận để cùng Dinhnghia.vn trao đổi thêm nhé. Chúc may mắn với các nghiên cứu của bạn!
Chuyên mục: Hỏi Đáp
#Đặc điểm của #con người #phụ nữ #trong #xã hội #phong kiến #thông qua #một số #một số #việc
Xem thêm: Tổng tài sản là gì?
[rule_{ruleNumber}]
#Destiny #person #woman #woman #in #society #feudal #thông qua #some #some #works
Bạn xem bài Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua một số tác phẩm Em có thể khắc phục vấn đề phát hiện được không?, nếu không được, hãy góp ý thêm về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua một số tác phẩm dưới đây để trường THPT Trang Đại Nghĩa thay đổi, hoàn thiện nội dung. nội dung tốt hơn cho bạn! Cảm ơn quý vị đã ghé thăm Website: thtrangdai.edu.vn của trường THPT Trảng Dài
Nhớ ghi nguồn: Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua một số tác phẩm