Phân tích bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn

Đưa ra yêu cầu

Đề bài: Phân tích – Bình luận về Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn

Phân công

Các dự án, quy định, mệnh lệnh và báo cáo nói chung là các tài liệu hành chính và chính thức, thường là mệnh lệnh hoặc cuộc gọi và thông báo từ cấp trên. Tác giả của nó, hoặc người ở vị trí phát biểu, phải là một vị vua hoặc một tể tướng, công bố một luật lệ hoặc chính sách được thần dân hoặc tướng lĩnh dưới quyền hết lòng thi hành hoặc tường thuật một sự kiện lịch sử nổi bật cho mọi người cùng nghe. . Tuy nội dung đề cập đến những vấn đề rất rộng nhưng mục tiêu cần đạt được là đoàn kết toàn dân tộc. Còn về phương tiện và cách trình bày thì phải là bài văn nghị luận, phải dựa vào luận cứ và luận cứ để thuyết phục trăm họ, muôn dân. Với những tư liệu trên, trong tình hình lịch sử văn học không thể phân biệt (nghệ thuật và hàn lâm là khái niệm thể loại chưa được xác định rõ ràng), cho đến nay nhìn lại, không thể có tác phẩm nào được gọi là văn học. Hoặc, chỉ có giá trị văn học ở một mức độ nhất định, nhưng văn bản đó gắn liền với một sự kiện lịch sử trọng đại chẳng hạn, thì không nên bỏ qua ngay. Chiếu dời đô nằm trong hoàn cảnh đó, nhưng lại thấm đượm chất văn, nhất là văn xuôi thời dựng nước. Đó cũng là chất thép của nước Đại Việt đang vươn lên. Sức thuyết phục của nó ở chỗ, tuy là tiếng nói của một người nhưng lại hội tụ trái tim của hàng triệu người, của cả dân tộc. Muốn thấm vào lòng người thì phải có lí lẽ, luận cứ và cách trình bày sao cho mạch lạc, rõ ràng. Tài hùng biện muốn phát huy thì phải gắn liền với trữ tình để tạo nên sự tri ân, cảm hóa.

Ưu điểm nổi bật của Đề án dời đô là tập trung cao vào nội dung cần nghị luận: Vì sao dời đô là “bất di bất dịch”? Trong sự thay đổi đó, chỉ có một nơi có thể thành lập, đó là “Kinh đô đầu tiên của Hoàng đế vĩnh cửu”. Trên tinh thần đó, lập luận không thừa một ý, diễn đạt không thừa một câu, nội dung và hình thức gần với một văn bia vô cùng cô đọng. Nó cũng là một mô hình cho thư pháp cổ đại.

Tham Khảo Thêm:  Đề học sinh giỏi Ngữ văn 8 năm 2014-2015 trường THCS Hưng Yên

Cả bài văn hình thành hai luận điểm chính:

1. Việc dời đô của nhà Lý là một tất yếu khách quan:

Sự thay đổi đó có tính chất thường xuyên, không thể chủ quan “theo ý mình được”. Tư tưởng khách quan đó thể hiện ở cả hai yếu tố: “trên tuân theo ý trời, dưới tuân theo ý người”. Cả hai yếu tố hội tụ lợi ích lâu dài: chỉ có “đặt vốn làm trung tâm” mới có khả năng “mưu sự lớn, mưu muôn đời con cháu” trong dài hạn. Đây chính là mục đích của việc dời đô. Nhưng có nhận ra được điều đó hay không còn tùy thuộc vào tầm nhìn hạn hẹp hay xa rộng của mỗi thời đại, của mỗi triều đại.

Bắt chước cái cũ mà không cổ hủ là một lối tư duy phóng khoáng và đổi mới. Sự lựa chọn nên hay không nên, lập luận của tác giả dựa trên thực tế quá khứ và hiện tại. Sự tương phản giữa hai cách hành động, hai lối suy nghĩ khác nhau, tự nó phơi bày ra một chân lý: xưa chưa hẳn là cũ, nay là mới, nhưng chưa hẳn đã là mốt. Xưa và nay không cần phân biệt, cứ làm đúng, “thuận thì đổi”. Lấy luật ngày nay mà nhìn về quá khứ, Lý Công khanh đã bắt gặp lối tư duy của người xưa. Tiếp nối truyền thống, phát huy truyền thống cần có sự chọn lọc sáng suốt, đó là phương châm và hướng làm. Trong tất cả những điều nên và không nên, lập luận diễn ra theo ba bước: hành động dời đô hay “lập thành” tại chỗ, mục đích của việc di chuyển và kết quả của việc di chuyển. Xưa, đời nhà Thương, đời vua thứ mười bảy (Bành Cảnh) có năm lần dời đô. Về sau nhà Thương, Chu Thành Vương có đến ba lần làm như vậy. Những quyết định dũng cảm ấy không hiếm, chỉ có trôn làm như vậy? Mục đích và kết quả của việc di chuyển rất tốn kém, tai mắt không ai nhận ra. Vì đã được công nhận nên tác giả chỉ đề cập “Cho nên nước nhà hạnh phúc dài lâu, phong tục thịnh”. Không đồng tình với phương pháp không theo vết cũ của nhà Thương, nhà Chu, của nhà Đinh, nhà Lê, lập luận phê phán chỉ còn lại hai bước tư tưởng được nhấn mạnh hơn. Tội của nhà Đinh, nhà Lê có bốn điều phải chối: “làm theo ý mình, coi thường mệnh trời, không theo dấu cổ Thương, Chu, chỉ giữ đô ở đây”. Sức thuyết phục của văn nghị luận không nằm ở độ dài của câu chữ. Bốn vế đầu của câu như những mũi tên trí tuệ bắn vào một mục tiêu duy nhất: đây là điều lẽ ra một số triều đại Đinh, Lê hiện nay phải thay đổi. Hậu quả của nó, qua phép đối, dưới dạng bảng hiệu, sự hưởng ứng bao trùm được thể nghiệm tức thì qua bốn mệnh đề đầy sức thuyết phục sau đây “không làm nên sự trị vì lâu dài, vận may ngắn ngủi, trăm họ trở nên hoang phí, và mọi thứ đều không được điều chỉnh.”

Tham Khảo Thêm:  Viết đoạn văn nghị luận xã hội 200 từ về câu nói: Hạnh phúc như bầu trời này vậy. Không chỉ dành cho một riêng ai

2. Thành Đại La là nơi an cư lý tưởng:

Ngay khi nhìn vào hai tấm gương trái phải khác nhau, tác giả đã bộc lộ ý định: không thể không thay đổi cách nghĩ, cách làm. Nhưng với sự tinh tế và khiêm tốn, tác giả chỉ bộc lộ cảm xúc: “Tôi rất lấy làm tiếc về điều đó”, nhưng không phải là không ngầm khẳng định, một sự quyết đoán không cưỡng lại được vì nó thuận theo mệnh trời. : “không thể di chuyển.”. Phủ nhận của một phủ định là một khẳng định. Đây là sự thật của suy nghĩ.

Ý kiến ​​của nhà vua trong việc định đô ở Đại La thuyết phục người nghe ở cả hai yếu tố: lí và tình, nội dung và hình thức diễn đạt, cách trình bày lí lẽ, lợi ích của Đại La được trình bày rất kĩ lưỡng với số lượng câu nhiều, nó giống như điểm nhấn của bài văn. Bốn câu nặng nghĩa này được nhân lên gấp đôi vì mỗi câu có hai vế, mỗi vế có tác dụng bổ sung cho nhau, thực sự là một tầng lớp. Nội dung của phần dựa trên thuyết phong thủy mà phát hiện ra vẻ đẹp nhiều mặt của Đại La: vị trí địa lý, vị trí văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện dân cư và nhân sinh vạn vật. . Đại La như viên ngọc quý, khi ánh sáng tánh giác chiếu vào thì lấp lánh ngưỡng mộ. Tình cảm của người viết, dù không muốn thể hiện, vẫn tràn đầy nhịp điệu, nhịp nhàng, trong từng chữ, trong từng câu vì thế. Yêu Đại La xuất phát từ ý định “đại kế làm ăn”, tầm nhìn xa về tương lai, làm lợi cho trăm họ. Nội dung trí tuệ và tâm hồn ấy được thể hiện trong một thể văn chuẩn mực. Hình thức này bổ sung đáng kể vào hiệu quả của đoạn văn. Cố gắng đưa ra một ví dụ về phản điểm, ví dụ đối lập, phản điểm, phản điểm, phản điểm. Ở đây tác giả đã có khá nhiều cố gắng, chẳng hạn: ngay ở câu đầu tiên, hai vế: “Giữa trời đất; lấy thế rồng chầu hổ ngồi”, mỗi vế bảy chữ, bằng nhau. thăng trầm của nhau. Tức là không xen kẽ giữa các câu dài, là những câu ngắn bắc cầu cho câu dài để tiếp tục dòng chảy sôi nổi của câu chuyện. Ví dụ, câu: “Địa hình rộng rãi, bằng phẳng; đất đai cao ráo, thoáng mát” thì nhịp điệu trở nên khoan thai: “Dân cư không lam lũ, vạn vật trù phú tươi đẹp”. Để tổng kết, cũng như nhấn mạnh lợi thế to lớn của đất nước Đại La, tác giả sử dụng nhịp văn nhanh với cách xưng hô không đơn điệu: đến “chốn thắng địa”, “chốn tụ tài” mới được. “Nhất phương tứ phương” cũng là “kinh đô đứng đầu”,… Luận cứ, luận cứ chừng ấy mà kết bài vẫn còn bỏ ngỏ (“Nghĩ sao?”) như thể không có câu trả lời là không. , nhưng thực ra câu trả lời ở ngay đó.

Tham Khảo Thêm:  Đề thi học sinh giỏi Ngữ văn 12 cấp tỉnh Hưng Yên năm 2011-2012

Sự kiện dời đô tuy là việc bình thường trong sử sách, nhưng phụ thuộc vào yếu tố khách quan (ý trời, vận nước), vào yếu tố chủ quan (tầm nhìn của nhà quản lý), nhưng ở thời điểm lý hợp thì việc dời đô , đó là một bước ngoặt, một bước ngoặt vĩ đại, một sự kiện phi thường. Phải có tiềm lực (về vật chất và tinh thần mà thời Đinh, Lê không có), phải có khát vọng, có ý chí thì đất nước mới vươn lên được, thoát khỏi cái vỏ giam cầm. đứng yên Nếu trong truyền thuyết có một Phù Đổng ra tay đánh giặc, giữ nước thì hành động của Lý Công Uẩn chẳng phải là vì sự nghiệp dựng nước trong thời bình hay sao? Sự nghiệp ấy và bài văn ấy như hai hiện tượng song sinh đã đi vào lịch sử và văn học như một sự tiếp nối, khơi nguồn cho dòng sông “đỏ phù sa” yêu nước thêm sâu và rộng thêm.

Related Posts

Soạn bài tìm hiểu chung về văn bản thuyết minh

Soạn bài tìm hiểu chung về văn thuyết minh Đưa ra yêu cầu I. Vai trò và đặc điểm chung của văn bản tự sự 1.Văn bản…

Soạn bài Ôn tập làm văn (lớp 10)

Ôn tập viết Tập làm văn (lớp 10) Đưa ra yêu cầu đặc trưng văn bản tự sự văn bản thuyết minh văn bản nghị luận Ý…

Viết bài tập làm văn số 3 lớp 9 đề 2: ngày 20 tháng 11 Kể lại một kỉ niệm đáng nhớ giữa em và thầy cô giáo cũ

Viết bài tập làm văn số 3 lớp 9 đề 2: 20 tháng 11 Kể lại kỉ niệm khó quên giữa em và cô giáo cũ Đưa…

Bài làm văn số 7: Văn nghị luận (lớp 10)

Đề Văn Số 7: Văn Nghị Luận (Lớp 10) Đưa ra yêu cầu – Ôn tập các kiến ​​thức về: văn bản, cách tạo lập văn bản,…

Bài văn nghị luận về Đức tính cẩn thận

Tiểu luận về đức tính thận trọng Đưa ra yêu cầu Ở nhà, tôi thường bị bố mẹ phê bình là hấp tấp, vội vàng, thiếu chu…

Viết đoạn văn giới thiệu bố cục sách Ngữ văn 8.

Viết đoạn văn giới thiệu bố cục của sách Ngữ văn 8. Đưa ra yêu cầu Sách giáo khoa Ngữ văn 8 hiện hành được các nhà…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *