phân tích người lái đò sông đà


Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân lớp 12 gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và 20 bài văn mẫu hay nhất được trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong tuyển chọn từ những bài văn đạt điểm cao trên cả nước sẽ giúp các em học sinh trau dồi kỹ năng làm văn, hoàn thiện bài làm. văn khi ôn tập, luyện tập và làm bài kiểm tra sắp tới đạt kết quả tốt.

Đề tài: Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Nội dung chính

3 Dàn ý Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Đề cương Phân tích Người lái đò sông Đà – Mẫu 1

1. Mở bài

– Về tác giả: Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp.

– Giới thiệu tác phẩm: “Người lái đò sông Đà” trích từ tùy bút “Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám.

2. Cơ thể

* Tổng quan

– Tác phẩm là kết quả của chuyến lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân để tìm “lửa thử vàng của thiên nhiên Tây Bắc” và “lửa thử vàng” của con người nơi đây.

Một. Vẻ đẹp hoang sơ của dòng sông

+ Bờ sông

– “xây tường”, bay lên, đứng lên.

– Sông hẹp đến nỗi “hươu và hổ từng nhảy từ bờ sông này sang bờ sông kia”.

– “Mặt sông kia buổi trưa mới có nắng”, “mùa hè mà đi đò qua quãng ấy thấy lạnh”.

– Khi đi qua đoạn đường này, người ta có cảm giác như đang “đứng trong ngõ nhìn lên cửa sổ tầng nào vừa tắt đèn điện”.

→ Trước mắt em là một khúc sông Đà sâu, hẹp, tối và lạnh đến mức ai qua đây cũng phải rùng mình sợ hãi.

+ Ghềnh

– Hát Loong Ghềnh “dài hàng cây số, nước cuộn thành băng, đá dựng sóng, sóng xô ngược gió, quanh năm gió thổi…”.

– Các từ “lăn tăn”, “gắt gỏng” vừa nghe ghê rợn, vừa gợi lên hình ảnh khủng khiếp về nơi này.

– Được mô tả là người đòi nợ

→ Nó có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không lường trước được.

+ Hút nước

– Nhìn từ xa, những dòng nước xoáy trên sông giống như lúm đồng tiền trên má người con gái, có thể kéo con thuyền xuống đáy sông và đập tan xác.

– Cửa hút nước như giếng bê tông thả xuống sông chuẩn bị đổ móng cầu.

“Nước ở đây thở nghe như tiếng hố ga bị nghẹt”.

→ Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc có cảm giác như đang xem một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng rùng rợn.

+ Thác nước

– Tiếng thác nghe như “oán uất”, nghe như “van xin”, “khiêu khích”, giọng đanh thép mà “khiêu khích”.

– “Rồi nó rống lên”, so sánh tiếng thác nước sông Đà với tiếng trâu nghìn mộng đánh nhau phá vòng vây của đám cháy rừng.

→ giữ nước sông.

+ Đá

– “cả một chân trời đá” → Đá sông Đà nhiều vô kể.

– từng mặt đá trông “ngoan”, “nhăn nheo”, “méo mó”.

– Rồi họ cũng bao vây một khối đá giống như bát quái đồ trên sông Đà.

→ sông Đà như kẻ thù số một của con người

b. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

– Sông Đà “dòng chảy như áng tóc trữ tình, mái đầu, sợi tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, nở hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi mèo đốt nương ngày xuân”.

– Không chỉ đẹp về hình dáng mà còn đẹp cả màu nước: mùa xuân nước suối xanh màu ngọc bích, mùa thu nước sông đỏ au như da mặt người ta bầm tím vì rượu.

– Đôi bờ sông Đà mênh mông, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bướm sông Đà”.

– So sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang vu như bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một cổ tích xưa”.

→ Những câu miêu tả vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo nên một đoạn thơ đặc sắc.

* Đánh giá

Với vốn hiểu biết sâu rộng và tài miêu tả sắc sảo → đưa người đọc đi từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác khi miêu tả hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà.

3. Kết luận

Khẳng định lại giá trị của tác phẩm

Đề cương Phân tích Người lái đò sông Đà – Mẫu 2

I. Giới thiệu

– Tác giả Nguyễn Tuân: có phong cách nghệ thuật độc đáo, cái tôi đầy cá tính, một cây bút tài hoa, uyên bác, luôn khám phá thế giới về văn hóa và thẩm mỹ.

– Tác phẩm được sáng tác trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, có nội dung ca ngợi vẻ đẹp của con người và thiên nhiên Tây Bắc.

II. Thân hình

1. Lời giới thiệu

– Ca từ “Đẹp làm sao…”: bộc lộ cảm xúc mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, cảm hứng chủ đạo là ngợi ca.

– Nhan đề tiếp: “Chúng ta là…”: thể hiện cá tính độc đáo của sông Đà.

2. Hình ảnh sông Đà

Một. Dòng sông “bạo lực”

– “Cảnh đá bờ sông xây thành”: lòng sông hẹp, “bờ sông xây thành”, “trưa nắng lên”, chỗ “vách đá… như yết hầu”.

– Trên mặt ghềnh Hát Loong: “nước đụng đá, đá đụng sóng, sóng ngược gió” một cách hỗn loạn, lúc nào cũng như “đòi nợ gần hết” các tay chèo ấy.

– Ở Tà Mường Vát: “có cửa lấy nước như giếng bê tông”, họ “thở và kêu như cống bị sặc nước”.

– Trận chiến thác nước được miêu tả từ xa đến gần:

+ Xa: từ xa, tiếng thác hiện ra với nhiều trạng thái: “oan ức”, “van xin”, “khiêu khích”, “dằn mặt”; “gầm như ngàn trâu… bốc cháy” (dùng lửa tả nước).

+ Gần: Đá cũng lắm mánh: “nhăn”, “lật hàm”, “ảo diệu”, có những hành động như “phục kích”, “đánh chặn”, “tiêu diệt”; các đợt: “đánh côn vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đánh xéo”.

+ Chuyển hóa linh hoạt 3 vi khuẩn:

– Nhận xét: Sông Đà mang dáng dấp và trái tim của một con thủy quái “thác beo”, kẻ thù số một của con người.

b. Sông Đà trữ tình

Từ trên cao nhìn xuống trông như “sợi dây ngoằn ngoèo”, “mái tóc trữ tình”, mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu chín đỏ.

– Đi rừng lâu mới gặp lại dòng sông: sông Đà như “ông cụ”, với ánh sáng “lấp lánh như đứa trẻ soi gương vào mắt”, như “cuộc hành quân ánh dương đời Đường”,…

– Khi chèo thuyền trên sông: “bờ sông như bờ tiền sử”, “hồn nhiên như cổ tích”, thiên nhiên âu yếm: lá ngô non, “con nai ngộ”,…

3. Hình tượng người lái đò trên sông Đà

– Có thể liên hệ với hình tượng Huấn Cao – người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn đến hình tượng người lái đò.

– Về xuất thân: tác giả xóa phông, tập trung miêu tả ngoại hình: “đôi bàn tay khẳng khiu… chất mun” để ca ngợi những con người vô danh âm thầm cống hiến.

– Công việc: chèo thuyền trên sông Đà, hàng ngày đối mặt với yêu quái hung bạo..

Tài năng và tâm hồn:

+ Là người từng trải, am hiểu và thạo nghề lái đò: “trên sông Đa Mặn ngược xuôi trăm lần”, “nhớ công phu… dòng suối”,…

+ Là người gan dạ, dũng cảm và tài giỏi: bình tĩnh đương đầu với dòng thác hung ác “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo…”, “nắm chắc mưu kế của thần sông, thần núi”. , Cái hang. kỹ xảo “cưỡi ngay đầu sóng, phóng thẳng thuyền ra giữa thác…”

+ Là một nghệ sĩ tài hoa: thích sông nhiều thác ghềnh, không thích lái thuyền trên sông phẳng lặng, coi chiến thắng “thủy quái” là chuyện thường tình.

– Khái quát phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

III. Kết thúc

– Nghệ thuật tổng kết đặc sắc: ngôn ngữ điêu luyện, trí tưởng tượng độc đáo, vận dụng hiểu biết về nhiều nghệ thuật, xây dựng thành công hình tượng sông Đà và người lái đò.

– Khái quát nội dung: tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động và vẻ đẹp thiên nhiên của đất nước.

Đề cương Phân tích Người lái đò sông Đà – Mẫu 3

I. Giới thiệu

Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà.

II. Thân hình

1. Hình ảnh sông Đà

Một. Sông Đà dữ dội

  • Cảnh hai bên bờ sông dựng đứng như bức tường thành và giữa lòng sông hẹp:

Có những vách núi chắn sông Đà như một cái họng.

Đứng ở bờ bên này nhẹ nhàng ném hòn đá qua bờ tường bên kia. Có lần một con hươu và một con hổ nhảy từ bờ sông bên này sang bờ sông bên kia.

Mặt sông ở đó chỉ có buổi trưa là có nắng.

→ Tác giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận.

  • Cảnh quay từ ghềnh Hát Loong:

Hàng cây số nước, đá, sóng, gió quanh năm như luôn đòi nợ bất cứ người lái đò nào trên sông Đà…

Ở khoảng này nếu tay lái bất cẩn rất dễ bị lật bụng thuyền.

→ Sử dụng nhiều câu rút gọn, phép láy, cấu trúc gợi lên sự vận động ào ạt của sóng và bão đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.

  • Khung cảnh tại Tà Mường Vát:

Trên sông bỗng xuất hiện những cửa hút nước như chiếc giếng bê tông được thả xuống sông để chuẩn bị đổ móng cầu.

Nước ở đây thở kêu éc éc như hố ga bị nghẹt… giếng sâu kêu ùng ục như vừa đổ dầu sôi vào.

Nhiều thuyền gỗ đi qua vô tình bị cái giếng hút nước nó kéo xuống.

→ Sử dụng biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo gợi cảm giác về sự nguy hiểm của sông Đà.

  • Trận thủy chiến giữa sông Đà và người lái đò:

Thiên nhiên Tây Bắc đôi khi như bộ mặt và trái tim của kẻ thù số một.

Tiếng nước nghe như than thở, rồi như van xin, rồi như khiêu khích, giọng thô kệch giễu cợt… gầm gừ như tiếng ngàn trâu tranh nhau giữa rừng trúc và rừng trúc bùng cháy. , đang tàn phá rừng lửa, lửa rừng gầm theo bầy trâu đang thiêu đốt.

Sông Đà đã giao việc cho từng hòn, nó lập một mảng đá trên sông: Một đống đá, chia làm ba hàng ngang sông, đòi ăn thuyền cho chết. Ở giữa sân có hai hòn đảo canh giữ một cửa đá nhìn như lỗ hổng, nhưng chính hai hòn đảo này lại đóng vai trò nhử thuyền đối phương vào sâu,….

Kết hợp với đá, nước thác reo vui như thanh thế cho đá, những tảng đá sừng sững, uy nghiêm, thách thức con thuyền.

Nước bám vào thuyền như một đô vật túm lấy thắt lưng người chèo thuyền và lộn ngược mình giữa dòng nước giông tố ầm ầm.

Thác hùm beo chảy âm ỉ trên sông đá…

→ Sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa đầy sáng tạo để khắc họa sự tàn khốc, khốc liệt của một trận thủy chiến cam go, ác liệt.

Con sông Đà hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân không phải là con sông vô tri, vô giác mà là một con người có hoạt động, có cá tính, có tính cách, có tâm trạng, không chỉ hung hãn mà còn rất xảo quyệt. , một âm mưu lừa người vào trận đã được chuẩn bị sẵn và hướng người vào cửa tử.

Hình ảnh sông Đà hiện lên hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội và rất hung bạo… Sông Đà tượng trưng cho sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên miền núi Tây Bắc.

b. Vẻ đẹp mộng mơ, trữ tình

Từ trên máy bay nhìn xuống, “dòng sông Đà chảy dài như áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc thoắt ẩn thoắt hiện trong mây trời Tây Bắc, nở hoa gạo”.

“Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông Lô “xanh như hến”. Nước sông mùa thu “chín từ từ, đỏ như mặt người vì rượu mà thâm tím”

→ Sông Đà mỗi mùa một vẻ đẹp, quyến rũ và tình tứ riêng.

Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh vật hai bên bờ sông vô cùng gợi hình: lá non nhú trên bãi ngô, con nai “ngẩng đầu nhung khỏi ngọn cỏ sương”. Con sông Đà như gợi lên bao cảm xúc sâu lắng. Thẳm sâu lịch sử đất Việt: Bờ sông hoang vu như bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xưa.

→ Nguyễn Tuân say sưa miêu tả dòng sông bằng tất cả sự tinh tế của cảm xúc, bằng một tình yêu tha thiết. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, tự hào về một non sông đã tạo nên những trang sử đẹp hiếm có.

2. Hình ảnh người lái đò

– Về lý lịch: một ông già gần 70 tuổi, làm nghề lái đò nhiều năm.

– Hình thức: “bàn tay chai sần… chất mun” để ca ngợi những con người vô danh âm thầm cống hiến.

– Công việc: chèo thuyền trên sông Đà, hàng ngày đối mặt với yêu quái hung bạo..

Tài năng và tâm hồn:

Là người có kinh nghiệm, hiểu biết và thạo lái đò: “trên sông Đà man ngược xuôi hơn trăm lần”, “nhớ kỹ… con suối”…

Là người gan dạ, dũng cảm và có tài: bình tĩnh đối mặt với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo…”, “nắm chắc mưu thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi ngay đầu sóng, phóng thẳng thuyền ra giữa thác…”

Là một nghệ sĩ tài hoa: thích sông nhiều thác ghềnh, không thích lái thuyền trên sông phẳng lặng, coi chiến thắng “thủy quái” là lẽ thường tình.

III. Kết thúc

Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.

Sơ đồ tư duy phân tích Người lái đò sông Đà

Sơ đồ tư duy phân tích Người lái đò sông Đà
Sơ đồ tư duy phân tích Người lái đò sông Đà

30 Bài văn Phân tích tác phẩm hay nhất Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Với 30 bài văn phân tích ngắn và hay nhất về Người lái đò sông Đà dưới đây, các em sẽ biết cách làm cho bài văn của mình trôi chảy, hoặc có thể có thêm những ý hay rồi diễn đạt lại theo phong cách viết của riêng mình. .

Phân tích ngắn gọn về Người lái đò sông Đà

Người lái đò Sông Đà là kết quả của nhiều dịp lên Tây Bắc của nhà văn, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong 15 bài tùy bút của Nguyễn Tuân in trong tập Sông Đà xuất bản năm 1960. Xuất bản lần đầu, bài có tên là Sông Đà , đến năm 1982 khi in lại trong tập 2 Tuyển tập Nguyễn Tuân, tác giả đổi nhan đề là Người lái đò Sông Đà.

Viết về sông Đà, Nguyễn Tuân có nhiều khám phá. Hai nét tiêu biểu nhất của sông Đà là hung bạo và trữ tình. Để làm nổi bật tính chất hung bạo và trữ tình của dòng sông, tác giả đã sử dụng tổng hợp các biện pháp nghệ thuật.

Trước hết là nghệ thuật nhân hóa. Đá trên thác sông Đà mai phục, hung dữ bày thành mảng đá để tiêu diệt bất kỳ con thuyền nào dám qua thác. Nước cũng vậy, chúng thở, gầm. Nước cũng cùng với đá tung ra những cú “có một không hai”. Nguyễn Tuân còn sử dụng bút pháp so sánh, tưởng tượng, huy động vốn kiến ​​thức phong phú về lịch sử, địa lý, quân sự, điện ảnh,… để miêu tả sông Đà.

Hình tượng người lái đò sông Đà là một người lao động, nhưng là một nghệ sĩ trong tác phẩm, hơn thế nữa là một dũng tướng trong những trận thủy chiến thường xuyên xảy ra với thác sông Đà. Ông là một người bình thường, nhẹ nhàng với những nét phác họa: “đầu ông bạc phơ… cái đầu vuông vức ấy đặt trên một thân hình cao và rắn chắc như cặp sừng mun”, “đôi tay khẳng khiu như thân người”. sào, chân lúc nào cũng khụy xuống…”. Anh là người dũng cảm, say mê thủy chung, đam mê cảm giác mạnh. Anh luôn bình tĩnh, ung dung đương đầu với khó khăn nguy hiểm. Chàng đã khôn ngoan vượt qua mọi cạm bẫy của thác ghềnh và đưa thuyền cập bến an toàn. Khi vác thuyền ông là một nghệ sĩ, một tướng tài. Khi kết thúc công việc, anh là một người bình thường, làm công việc bình thường là chở đò trên sông.

Đặc điểm nổi bật của văn Nguyễn Tuân là sự uyên bác và tài hoa. Để nói về sông Đà, Nguyễn Tuân dẫn thơ cổ, thơ Lý Bạch, thơ Bronievski (Ba Lan). Ông vận dụng kiến ​​thức lịch sử, địa lý, hội họa, điện ảnh, quân sự, thể thao để viết về dòng sông dữ dội và thơ mộng. Anh ấy luôn được truyền cảm hứng đặc biệt bởi những hiện tượng phi thường, giật gân. Ông luôn say mê khám phá và thưởng ngoạn cái đẹp. Vẻ đẹp dữ dội và thơ mộng của sông Đà, vẻ đẹp của người lái đò giản dị nhưng khi vượt thác lại như một vị tướng tài ba, điêu luyện đã thôi thúc Nguyễn Tuân sáng tạo. Đúng là nhà văn nhìn phong cảnh và con người dưới góc độ nghệ thuật và tài hoa.

Phân tích Người lái đò sông Đà ngắn gọn hay nhất
Phân tích người lái đò sông Đà ngắn gọn nhất

Phân tích Người lái đò sông Đà – Mẫu 1

Nói đến Nguyễn Tuân, người ta nghĩ ngay đến một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Cái đẹp trong các tác phẩm của anh phải là cái đẹp đạt đến độ hoàn mỹ. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân đạt nhiều thành tựu cả trước và sau cách mạng. “Người lái đò sông Đà” trích từ tùy bút “Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám.

Tác phẩm là kết quả của chuyến lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân để tìm kiếm “lửa thử vàng của thiên nhiên Tây Bắc” và “lửa thử vàng mười” của con người nơi đây.

Ngay ở những câu đầu tiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện rõ sự hung bạo của sông Đà. Dòng sông không trôi giữa đôi bờ “cát trắng phẳng lì” thơ mộng mà bờ sông “xây bức tường thành”, cao vút, dựng đứng. Sông hẹp đến nỗi “có lần hươu, hổ nhảy từ bờ sông này sang bờ sông kia”. “Mặt sông ở đó chỉ có buổi trưa”, “Mùa hè đi đò em cũng thấy lạnh”, cái lạnh thấu từng lớp da, sự sợ hãi của thiên nhiên nơi đây. Khi đi qua đoạn đường này, người dân có cảm giác như đang “đứng trong ngõ nhìn lên ô cửa sổ tầng 2 vừa tắt đèn điện”. Bằng hàng loạt hình ảnh gợi tả, Nguyễn Tuân đã đẩy người đọc từ phố thị đến với khung cảnh hoang sơ đến hãi hùng của thiên nhiên sông nước. Người ta thấy hiện ra trước mắt một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối, vừa lạnh, đủ để ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.

Đi qua bảy mươi ba ghềnh, có thể kể tên năm mươi ghềnh, nhưng đáng sợ nhất là ghềnh Hát Loong “dài hàng cây số, nước rắn như đá, đá lởm chởm, sóng vỗ, gió cuộn xoáy quanh năm…”. Cấu trúc trùng điệp, nhịp văn nhanh mạnh khiến người đọc không sợ tiếng sóng, tiếng gió, tiếng nước, tiếng đá. Những từ “lăn tăn”, “gắt gỏng” vừa nghe ghê rợn, vừa gợi lên những hình ảnh ghê rợn về nơi đây. Sông Đà được miêu tả như những kẻ sẵn sàng “đòi nợ” người dân trên sông. Nó có thể gây ra nhiều nguy hiểm mà con người không thể lường trước được.

Đó vẫn chưa kể hết sự khủng khiếp của sông Đà. Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt thủ pháp nghệ thuật khác nhau để khắc họa sự hung bạo của dòng sông Đà hút nước. Nhìn từ xa, những xoáy nước trên sông trông giống như chiếc lúm đồng tiền trên má cô gái, nhưng nó không duyên dáng hay dễ thương, thay vào đó nó có thể kéo một chiếc thuyền xuống đáy sông và đập nó thành từng mảnh. Không những thế, Nguyễn Tuân còn so sánh cửa lấy nước với giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Hình ảnh so sánh này vừa gợi ra chiều sâu kỳ thú của những dòng nước xoáy, vừa khiến người đọc phải khiếp sợ khi hình dung ra nó. Càng sợ hơn khi đọc những câu miêu tả tiếng vòi hút nước. “Nước ở đây thở nghe như tiếng hố ga bị nghẹt”. Nước không chỉ đổ vào nhiều, nhanh mà còn đặc quánh như dầu sôi được đổ vào. Từ “cu cu” gợi cảm giác sông Đà như một con thủy quái bị siết chặt cổ họng đang quằn quại, vùng vẫy. Sự dã man này khiến người viết liên tưởng đến hình ảnh một người quay phim táo tợn mang theo chiếc máy ảnh, ngồi trên chiếc thuyền thúng xuôi dòng hút của sông Đà, rồi từ đó lia ống kính ngược để ghi lại một cảnh tượng hãi ​​hùng: chiếc giếng xanh ngắt như nước, đầy kính như sắp vỡ và rơi trúng người, kể cả máy ảnh. Con thuyền quay tít, những thước phim màu cũng quay tít. Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc có cảm giác như đang xem một bộ phim hành động gay cấn nhưng cũng không kém phần rùng rợn.

Sự hung bạo của sông Đà còn được miêu tả qua thác nước. Người viết hướng sự chú ý của người đọc vào âm thanh của chúng và miêu tả chúng theo trình tự từ xa đến gần. “Còn lâu mới tới thác” nhưng dã tâm và bộ mặt của “kẻ thù số một của đàn ông” đã dần lộ diện. Họ đến với âm thanh “khóc gần và hét lại”. Tiếng thác nghe như “oán uất”, nghe như “van xin”, “khiêu khích”, giọng đanh thép mà “khiêu khích”. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa so sánh và nhân hoá này đã làm cho sông Đà hiện lên với một trọng tâm phức tạp. “Rồi nó gầm lên,” âm thanh được phóng đại như thể nó đang ở đỉnh điểm của sự phấn khích tột độ. Nguyễn Tuân còn so sánh tiếng thác sông Đà với tiếng trâu nghìn mộng đánh nhau phá vòng vây của rừng lửa.

Và để tăng thêm vẻ hung dữ của sông Đà, Nguyễn Tuân còn hướng ngòi bút của mình vào việc miêu tả đá sông. Hình ảnh ẩn dụ “cả một chân trời đầy đá” gợi cảm giác sông Đà có vô số đá. Đá sông Đà đã được Nguyễn Tuân thổi hồn vào từng mặt đá trông “chênh vênh”, “nhăn nheo”, “méo mó”. Rồi họ cũng bao vây một mảng đá như bát quái đồ trên sông Đà.

Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, dòng sông hung bạo này không khác gì kẻ thù số một của con người. Nhưng ngay sau đó, khi bạo lực qua đi, nó lại hiện lên với những bức tranh vừa trữ tình vừa nên thơ.

Từ trên máy bay nhìn xuống, “dòng sông Đà dài lững lờ chảy như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, nở hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi mèo đốt ruộng. mùa xuân”. Bằng cách so sánh sông Đà “như áng tóc trữ tình”, nhà văn đã làm cho dòng sông hiện lên với vẻ đẹp của một người phụ nữ. Thông thường, người ta sẽ thấy từ “áng” hay dùng để chỉ những tác phẩm nghệ thuật, nhưng ở đây Nguyễn Tuấn từng nói đến sông Đà, có thể thấy trong tâm tưởng của tác giả, sông Đà giống như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hóa đã ban tặng.

Sông Đà không chỉ đẹp về hình mà còn đẹp cả màu nước. Tác giả đã quan sát dòng sông trong những không gian và thời gian khác nhau. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, vừa trong veo vừa óng ánh. Mùa thu nước sông đỏ như da mặt người bị rượu làm bầm. Bằng những miêu tả chi tiết, cụ thể và những so sánh độc đáo, con sông Đà hiện lên vừa đẹp vừa đa dạng, qua đây ta cũng thấy được tầm hiểu biết sâu rộng cũng như khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.

Đôi bờ sông Đà mênh mông, trải dài “đôi bờ sông Đà, đôi bờ sông Đà, chuồn chuồn, bướm sông Đà”. Câu văn được ngắt thành nhiều đoạn tạo nên nhịp điệu dồn dập. Để rồi khi từ trên thuyền nhìn xuống, sông Đà có vẻ “lặng lẽ”, tĩnh lặng tuyệt đối. Sự tĩnh lặng của dòng sông ẩn chứa một sức sống dồi dào. Nhà văn cũng đã sử dụng những so sánh rất gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang sơ như một bãi tiền sử”, “bờ sông thơ ngây như một cổ tích xưa”. Nhà văn đã dùng những khái niệm trừu tượng để miêu tả vẻ đẹp cụ thể của sông Đà, làm cho sông Đà hiện lên không chỉ là dòng trống của không gian mà còn là dòng sông của thời gian. Câu “Thuyền em trôi sông Đà” gợi sự êm đềm của sông Đà và sự thanh thản trong tâm hồn con người. Giữa khung cảnh nên thơ ấy, người viết nghe thấy một tiếng còi sương – tiếng còi lanh lảnh của đoàn tàu đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu, đó là âm thanh của cuộc sống đủ đầy, hiện đại.

Có thể thấy, những câu văn miêu tả vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của sông Đà đã tạo nên một đoạn thơ đầy chất thơ. Chất thơ trong cảnh sông Đà, chất thơ của tâm hồn con người.

Bằng vốn kiến ​​thức sâu rộng và tài miêu tả sắc sảo, Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đi từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác khi miêu tả hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà.

Đọc “Người lái đò sông Đà” người ta càng hiểu thêm vì sao vẻ đẹp trong văn Nguyễn Tuân được gọi là vẻ đẹp của sự hoàn mỹ. Tác phẩm một lần nữa khẳng định tài năng sử dụng ngôn từ bậc thầy của Nguyễn Tuân và giúp người đọc thấy được tình yêu quê hương đất nước mà ông gửi gắm trong tác phẩm.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Model 2

Tác phẩm Người lái đò sông Đà là một tùy bút sáng tạo, tiêu biểu cho phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám: uyên bác, tài hoa, không nề hà vất vả để có được những dòng văn, cảm giác chân thực đậm đà, giàu sức liên tưởng gây cho người đọc, người nghe những cảm xúc của một tâm hồn khao khát hòa nhập với nhịp phát triển của đất nước trong cuộc sống.

Tác phẩm là kết quả của hành trình ngược Tây Bắc của tác giả giai đoạn 1958-1960 đầy trải nghiệm sâu sắc, in lần đầu trong Sông Đà (1960). Dòng sông Đà quanh co, uốn lượn theo sườn núi, nước chảy xiết với độ dốc lớn. Chính đặc điểm đó đã tạo cho Đà Giang một vẻ đẹp kỳ thú, hoang sơ và kỳ vĩ. Hình ảnh con sông Đà hung bạo nhưng trữ tình đã làm nổi bật vẻ đẹp tài hoa của người nghệ sĩ, ông lái đò và người lái đò trên dòng Đà Giang.

Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có công lớn trong cả thời kỳ trước và sau năm 1945. Trước năm 1945, ông có tập “Vang bóng một thời” gồm 11 truyện rất đặc sắc, có giá trị lớn. Hòa chung với không khí của thời đại trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc, văn phong Nguyễn Tuân luôn giữ được những nét độc đáo, sáng tạo. Ông là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới dưới góc độ văn hóa và thẩm mỹ. Nguyễn Tuân miêu tả con người ở vẻ đẹp của người nghệ sĩ tài hoa. Thiên nhiên hiện lên trong văn chương của ông cũng trở thành những tác phẩm nghệ thuật kỳ vĩ và độc đáo. Người lái đò sông Đà là một đoạn trích trong bài tùy bút Sông Đà của ông, viết năm 1960, trong một chuyến lên vùng Tây Bắc hiểm trở nhưng đầy thú vị. Chuyến đi đã thỏa mãn khát vọng “xê dịch” của nhà văn, trong chuyến đi đó ông không quên tìm kiếm “chất vàng” của cảnh sắc thiên nhiên nơi đây, lắm hiểm trở, nguy hiểm nhưng cũng đầy thơ mộng. những giấc mơ nồng nàn. Vẻ đẹp của con người nơi đây được Người ví như “chất vàng mười ngàn đã được thử lửa”, họ là những con người lao động trí tuệ, dũng cảm và có sức mạnh chế ngự thiên nhiên.

Hai hình ảnh bao trùm, xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh con sông Đà và hình ảnh người lái đò trên dòng sông quanh năm dữ dội thử thách lòng người. Bằng ngòi bút tài hoa của mình, ông đã tạo nên hình ảnh Đà Giang với hai sắc thái, hai khía cạnh tương phản vừa hùng vĩ vừa hung bạo nhưng cũng không kém phần trữ tình, thơ mộng.

Nguyễn Tuân dẫn dắt người đọc đi theo cảm giác vừa sợ hãi tột độ, vừa say mê, rạo rực. Bằng trí tưởng tượng phong phú, lối viết độc đáo, nhạy cảm, con sông Đà hung bạo hiện lên trong lòng người đọc với niềm say mê ghê sợ và khoái cảm tột độ. Sự tàn bạo được nhà văn miêu tả mở đầu bằng cảnh “đá dựng bờ sông xây thành”, nghệ thuật ẩn dụ đá bãi sông được Nguyễn Tuân ví như những tòa thành kiên cố, vững chãi và nguy hiểm, bí ẩn, đầy đe dọa đang chờ đợi. Nhà văn miêu tả, lúc đó mặt sông “đúng buổi trưa” có nắng, có những vách đá “đè lòng sông như yết hầu”, có những lúc như hươu, nai nhảy từ bờ này sang bờ kia. . Những liên tưởng tưởng chừng bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng chứa đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Bên sông, chưa đến trưa, khi mặt trời lên cao nhất, ánh nắng chiếu vào, động từ mạnh “chặt” rất giàu sức biểu cảm kết hợp với nghệ thuật so sánh “như họng”, hai vế của hươu nai có thể nhảy qua. Những hình ảnh độc đáo được tác giả khéo léo lồng vào, cho người đọc cảm nhận được độ cao của vách đá và độ hẹp của lòng sông. Ngồi trong khoang thuyền băng qua dòng sông ấy “mùa hè cũng lạnh” tác giả miêu tả qua cảm giác mùa hè thật oi bức, oi bức nhưng khi đi qua đây khung cảnh choáng ngợp, tráng lệ và chật hẹp khiến ta chạnh lòng. sợ hãi và nhỏ bé giữa thiên nhiên.

Cảnh hung bạo của sông Đà còn được thể hiện qua mặt ghềnh Hát Loong. Hàng nghìn cây số “nước chọi băng, đá chọi sóng, sóng chọi gió”. Hàng loạt vạch nhọn xuất hiện, cho ta cảm giác sóng ngày càng mạnh và cao hơn. Nghệ thuật điệp ngữ, điệp cấu trúc nối tiếp nhau, động từ mạnh “xô” được lặp lại nhiều lần. Sức mạnh của thiên nhiên thật khủng khiếp, lạnh lắm thì “hùm”, hè như một con thú dữ hung dữ, lì lợm, sẵn sàng thách thức con người nơi đây.

Những “máy hút” khổng lồ trên sông Tà Mường Vát. Những xoáy nước “như giếng bê tông” được thả xuống tạo thành móng cầu, nước ở đây “thở và kêu như cống nghẹt”. Nghệ thuật nhân hóa, so sánh của Nguyễn Tuân làm cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Đoạn sông này hiểm trở nên không một con thuyền nào dám lại gần, nếu không sẽ bị hút vào, dìm xuống lòng sông và biến mất một cách kinh hoàng.

Hình ảnh hung bạo, dữ dội của dòng sông được tác giả khắc họa rõ nét nhất trong cảnh thác nước sông Đà. Tác giả miêu tả dòng sông bằng những hình ảnh rất giàu sức biểu cảm, với những âm thanh dữ dội mang nhiều sắc thái, còn xa tiếng thác mà đã nghe tiếng “gào càng lúc càng gần”, tiếng nước. nghe như “oán”, như “van xin”, như “khiêu khích”, nó gầm lên ghê rợn như tiếng “con trâu ngàn mộng” rống lên, giãy giụa trong khi rừng đang cháy, lửa đỏ. rực rỡ rực rỡ.

Đá sông Đà nhiều vô kể, tất cả gộp lại thành một “chân trời đá” rộng lớn. Mỗi viên đá mang một dáng vẻ khác nhau, mà viên đá nào được mài nhẵn trông cũng rất “dồ xề”, “nhăn nhúm”, “méo mó”, ở đây tác giả dùng nhiều tính từ nhân hóa để miêu tả những con người thông qua chúng. Người đọc cảm nhận được sự hung dữ, bất cần, ngang tàng của đá, chúng như những sinh vật sống và là những đứa con của mẹ thiên nhiên. Sông Đà dường như đã giao nhiệm vụ cho từng phiến đá bày “trận thạch” để tuyên chiến, thách thức con người. Vòng thứ nhất, “thạch trận” có năm cửa trận, “tứ cửa tử”, “một cửa sinh” nằm ở tả ngạn sông. Đến vòng thứ hai, thác sông Đà thể hiện sự xảo quyệt và háo sắc, lần này có thêm nhiều cửa tử để đánh lạc hướng con thuyền vào chỗ chết, một cửa sinh được bố trí bên phải. ngân hàng. Vòng thứ ba, vòng cuối cùng của phân định thắng thua, thác sông Đà ít cửa hơn, nhưng trái phải đều là “suối chết”, cửa sống duy nhất nằm ngay chính giữa các hậu vệ đang canh giữ. Qua lối miêu tả độc đáo, sinh động và giàu trí tưởng tượng của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên dữ dội và hung dữ, nó như một con “thủy quái khổng lồ” vừa dã tâm vừa nguy hiểm. Kẻ thù số một của con người trong cuộc chiến không cân sức.

Tuy nhiên, cũng có lúc sông Đà trở lại vẻ đẹp dịu dàng, trữ tình. Vẻ đẹp của Đà Giang được miêu tả qua nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ, nhiều không gian và thời gian khác nhau. Từ trên cao nhìn xuống, dòng sông Đà uốn lượn, mềm mại như mái tóc của người con gái Tây Bắc đẹp kiêu sa. Con sông Đà được nhà văn viết nên bằng những hình ảnh rất giàu sức biểu cảm và gây ấn tượng sâu sắc “chạy dài như áng tóc trữ tình, chân tóc và chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, tháng hai hoa gạo nở và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt ruộng xuân”. Màu nước sông Đà thay đổi theo các mùa, mỗi mùa mang một vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt: mùa xuân nước sông Đà “xanh như ngọc”, mùa thu nước “chín đỏ”. Dòng sông như một thiếu nữ xinh đẹp, mộng mơ đang tuổi thanh xuân, đầy kiêu hãnh nên tính tình có phần khó hiểu, hay thay đổi thất thường.

Con sông Đà hiền hòa “như một cố nhân”, cảnh vật bên bờ thật êm đềm và đẹp đẽ. Sau chuyến đi xa, anh nhìn dòng sông Đà gợi cảm và thơ mộng như “màu nắng tháng ba”, bờ sông đầy chuồn chuồn, bươm bướm. Ông già ấy bây giờ tĩnh lặng lạ thường như đang lắng nghe âm thanh của thời gian, thưởng thức cảnh vật hai bên bờ sông. Đôi bờ sông Đà hoang sơ như cổ tích và trù phú, căng tràn sức sống từ phù sa bồi đắp. Những nương ngô “lắc mấy lá ngô non đầu mùa”, những ngọn cỏ “đơ nhú lộc”, xa xa là vài chú nai đang gặm cỏ. Dòng sông Đà lúc này như đôi bờ bồng lai tiên cảnh mang trong mình bao cảm xúc cổ tích xa xưa và hoài niệm.

Con sông Đà được tác giả khắc họa rất rõ nét với nhiều vận dụng nghệ thuật đặc sắc: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, động từ mạnh…, bằng khả năng liên tưởng, sáng tạo mới lạ, tác giả đã viết nên những câu văn giàu nhịp điệu, sinh động . Dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, Đà Giang không còn là dòng sông vô tri vô giác mà là một bản thể biết suy nghĩ, có hồn.

Trong tác phẩm của Nguyễn Tuân làm sao có bóng dáng con người? Thiên nhiên càng bao la, hùng vĩ, dữ dội lại càng làm nổi bật vẻ đẹp trí tuệ tài hoa của con người lao động. Trong bài, tác giả đã xây dựng hình ảnh “người lái đò” là biểu tượng của người lao động cần cù nhưng không kém phần mạnh mẽ, dũng cảm khi sẵn sàng đương đầu với thiên nhiên hào hiệp. quyết liệt trong cuộc chiến không cân sức. Con sông Đà bỗng trở thành kẻ thù số một, người lái đò thật nhỏ bé giữa thiên nhiên. Tuy nhiên, họ vẫn thể hiện sự thông minh và tài năng nghệ thuật của mình.

Phẩm chất anh hùng, tài năng, trí tuệ của người lái đò được thể hiện qua cảnh vượt thác sông Đà. Tại đây, dòng sông gian xảo và xảo quyệt bày trận “thạch chiến” với ba vòng thử thách như muốn tiêu diệt những con tàu đi qua. Các anh hùng vẫn không sợ hãi, vẫn rất bình tĩnh với trí tuệ của mình, người lái đò đã lần lượt chinh phục từng cửa ải. Vòng thứ nhất, có năm cửa trận, bốn cửa từ trường, chỉ có một cửa sinh duy nhất nằm bên tả ngạn. Thuyền vừa cập bến, “phối hợp với đá, nước reo như tiếp sức cho đá” của những phiến đá chênh vênh, trang nghiêm. Có hòn trông như đang “ngang hàm” yêu cầu con thuyền “xưng danh trước trận”, có hòn lại thách người chèo thuyền “có hay thì vào đây”. Người lái đò không nao núng, vẫn “cầm mái chèo cho khỏi xô”. Mặt nước reo hò ầm ĩ, ập vào như bẻ lái thuyền, sóng như “liều mạng” ập vào “đá quả đầu gối trái vào bụng và mạn thuyền”. Nước đeo bám như một “đô vật” muốn vật ngược người lái đò. Sóng đánh đòn “hiểm” nhất, dòng nước siết chặt thân dưới con thuyền. Người lái đò bị thương “mặt méo xệch” nhưng không đầu hàng địch, ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt vào buồng lái”, giọng chỉ huy vẫn vang lên ngắn gọn, tỉnh táo. Vì vậy, “mảng sâu microlithic đầu tiên” bị phá vỡ.

Không cần ngơi tay, ngơi mắt một giây để phá vòng vây thứ hai, lần này người lái đò thay đổi chiến thuật. Người lái đò đã nắm chắc “đội quân thần sông Đà”, “thuộc quy luật mai phục của những tảng đá trong con đường thủy hiểm trở này”. Dòng sông Đà lộ rõ ​​sự lọc lừa, tàn ác khi lần này bày thêm cửa tử, cửa sinh nằm lệch về phía hữu ngạn sông. Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh cưỡi ngựa trên sông Đà, “cưỡi đến cùng như cưỡi hổ”. Nắm lấy bờm sóng đi đúng hướng, không một giây do dự, người lái đò “cầm chắc dây cương”, bám chặt lấy nước, cố lao về phía cửa sinh, “lái xéo về phía cửa ấy”. đằng sau cánh cổng tử thần và những viên đá vẫn không ngừng “khiêu khích”.

Trận cuối ít cửa ải hơn, “bên phải bên trái đều là suối chết”, suối sinh nằm ngay giữa những người bảo vệ thác. Con sông Đà dường như chưa từ bỏ tham vọng, sự hung hãn, muốn nuốt chửng con thuyền trong trận chiến quyết định cuối cùng này. Nhưng bao nhiêu lần vượt ghềnh thác, người lái đò tích lũy được nhiều kinh nghiệm, ông cho thuyền phóng thẳng “chỉ chọc qua cửa giữa”, con thuyền như một mũi tên tre nhọn, vọt nhanh “cứ chọc thủng”. Tôi chỉ lướt được trên chế độ lái tự động.” Cuối cùng, bằng lòng dũng cảm, trí thông minh và kinh nghiệm của mình, người lái đò đã vượt thác an toàn, giành chiến thắng không khoan nhượng trước kẻ thù hung bạo.

Nguyễn Tuân đã xây dựng hình tượng nhân vật người lái đò sông Đà bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc. Tác giả sử dụng từ ngữ thuộc nhiều lĩnh vực: võ thuật, võ thuật, thể thao, âm nhạc…, biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa cùng với nhịp điệu câu văn sinh động, hài hòa. Ông đã khắc họa thành công hình tượng người lái đò sông Đà với trí tuệ, tài năng và bản lĩnh, qua đó ca ngợi vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của người lao động Tây Bắc.

Đoạn trích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là một bài tùy bút có giá trị lớn, tác giả đã thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng, khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên cùng với con người. xa về phía tây bắc. Đồng thời cũng thể hiện tình cảm, sự trân trọng, sự gắn bó tha thiết, sâu sắc của Nguyễn Tuân đối với quê hương, đất nước và con người Việt Nam.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Mẫu 3

Nguyễn Tuân sinh năm 1910 mất năm 1987, là một nghệ sĩ lớn của dân tộc Việt Nam. Là một trí thức yêu nước, hiểu biết sâu rộng về văn hóa dân tộc, ông viết nên những tác phẩm hết sức uyên bác và có giá trị. Nếu như trước cách mạng, văn chương của Nguyễn Tuân làm rung động lòng người bởi vẻ đẹp tài hoa của những con người “một thời vang bóng” như Huấn Cao, thì sau cách mạng, Nguyễn Tuân lại khiến người đọc xúc động bởi sự tinh tế và tài vẽ nên những vẻ đẹp gân guốc nhưng gần gũi, giản dị. đối với thiên nhiên và đời sống con người. Bài tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một thành công tiêu biểu cho phong cách văn học đó.

Trong bài văn, Sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, kiêu sa, dữ dội vừa đẹp dịu dàng, thơ mộng. Nguyễn Tuân đã miêu tả dòng sông từ nhiều góc độ, nhiều khía cạnh mà nhìn ở khía cạnh nào cũng đẹp, yêu lắm. Không lặng lẽ soi bóng trên rặng tre mỗi trưa hè, cũng không mang theo sự trầm tư trong từng hơi thở khi màn đêm buông xuống, sông Đà hiện lên vô cùng sinh động, dữ dội và dữ dội. Nó được coi là “kẻ thù số một của con người”. Những thác nước lớn và hung dữ, dòng nước đổ từ Vạn Yên xuống mênh mông. Hai bên bờ sông đã bồi đắp đá thành những mỏm đá vô cùng nguy hiểm. Nước và sóng chồng lên nhau như tranh nhau thể hiện hết sự hung dữ, oai phong của mình: “Trong thành có vách đá như cái họng. Đứng ở bờ bên này nhẹ nhàng ném hòn đá qua bờ tường bên kia. Có lần một con hươu và một con hổ nhảy từ bờ này sang bờ kia.” Mặt sông nhìn từ trên cao đầy những vết hút nước như những trụ bê tông. Nước cất tiếng kêu khủng khiếp, lúc như giếng bị sặc, lúc như dầu sôi”. Tất cả dựng lên trước mắt chúng tôi một thế hiểm trở và đầy thử thách, hiểm nguy mà ai đi qua cũng phải đối mặt. tư thế sẵn sàng dìm chết bất cứ ai không vững tay lái trước mỗi khúc sông, không làm chủ được thế trận chinh phục non sông, khiến bao con thuyền qua lại phải dè chừng, hoảng sợ, tìm cách tránh những cạm bẫy do sông Đà giăng sẵn : “Không thuyền nào dám lại gần những cửa nước ấy, thuyền nào cũng chèo thật nhanh để lướt sóng. sông”, biết bao bè gỗ phải gồng mình chống chọi với lũ sâu khổng lồ, biết bao thuyền bè chết mê chết mệt dưới lòng sông.

Với vốn hiểu biết và trải nghiệm sâu sắc, Nguyễn Tuân đã sử dụng những từ ngữ mới mẻ, sinh động và độc đáo để miêu tả về một dòng sông Đà. Sông Đà cũng mang một vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng, uyển chuyển như vẻ đẹp của người thiếu nữ vùng núi Tây Bắc. Sông Đà lúc này thật nên thơ và mơ màng, tình yêu dường như dâng trào với những cảm xúc nồng nàn khó tả: “Sông Đà chảy dài, tuôn như áng tóc trữ tình…. con người đến những rung cảm trong tâm hồn, một sức hấp dẫn lớn.Đôi khi sông Đà cũng có cảm xúc, nhớ, thương như bao người.Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông còn được thể hiện giữa thiên nhiên, mây trời tạo nên một nét riêng không trộn lẫn nên bất cứ lúc nào cũng thu hút người xem: “Em đã đắm say dòng sông Mùa xuân mây bay trên sông Đà, Em đã qua mây thu nhìn xuống mặt nước Đà Không chỉ vậy, sông Đà còn làm say lòng người bởi màu nước thay đổi theo mùa: “Mùa xuân nước suối xanh màu ngọc bích, nhưng nước sông Đà không xanh như sông Gâm và Sông Lô. Mùa thu, nước sông Đà đỏ như da mặt người bị rượu làm cho nổi giận, đỏ bừng trong lòng kẻ bất bình mỗi lúc lại nổi giận.”

Đôi bờ sông Đà cũng đẹp lắm, ngào ngạt bởi hương hoa, bướm lượn, chuồn chuồn, ruộng ngô non đầu mùa hay những ai trúng vàng. Đó đây, đàn hươu đang thong dong gặm cỏ trên ngọn cỏ non ướt đẫm sương đêm, vạn vật như hòa mình vào nét tuyệt vời của dòng sông, tô điểm một vẻ đẹp mời gọi khiến lòng người thổn thức: “Con hươu thi sĩ ngẩng đầu nhung nhớ”. từ ngọn cỏ mờ sương, nhìn tôi trôi trên thuyền. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mà như muốn hỏi tôi bằng lời của một loài vật ngoan: “Hỡi Sông Đà, có phải vừa nghe một tiếng sáo sương không?”. Sông Đà như một “ông già” cũng như một “nghệ sĩ tài hoa”. Bằng lối miêu tả độc đáo với tình cảm chân thành, sự trân trọng, nâng niu từ những điều bình dị, nhỏ bé, Nguyễn Tuân như đã phác họa nên bức tranh thủy mặc sông Đà làm say lòng người bởi vẻ đẹp diệu kỳ của nó. tuyệt vời, thân yêu.

Cùng với hình ảnh con sông Đà cá tính, đến với tác phẩm ta còn cảm nhận được hình ảnh người lái đò tài hoa, nghệ sĩ, điêu luyện trên sông. Người lái đò ấy không phải là một thanh niên tuấn tú, thân hình vạm vỡ mà là một ông lão gần bảy mươi tuổi: “Trên sông Đà người đi xuôi, ngược trăm lần, tự tay cầm lái, người đã ngoài sáu mươi”. lần”. Phải chăng kinh nghiệm của bao chuyến đi trong suốt mười năm công tác đã giúp anh trở nên chững chạc, bản lĩnh và bền bỉ đến thế: “Anh nhớ tỉ mỉ như đinh đóng cột mọi mạch nước trong lòng đất, kể cả những thác nước nguy hiểm”. được ví như “vàng mười” đã được thử lửa: Mái đầu bạc phơ ấy đặt trên thân hình cao và rắn chắc như sừng, đất mùn, con người của ông là một người của vùng sông nước hùng vĩ, trên ngực là “củ khoai nâu” in dấu những trận chiến cam go với dòng sông Đà hung dữ, đối với tác giả dường như đó là những tấm huân chương cao quý minh chứng cho sức lao động của con người trong công việc của mình. , lại càng hào hứng: “Quay một vòng trên sông, thấy bọt sóng tung trắng cả chân trời đá… Một mình một thuyền anh chiến đấu như dũng sĩ. Trải qua ba trận đá bằng lòng dũng cảm và sự mưu trí, người lái đò đã chiến thắng, trở về với cảnh lao động và cuộc sống yên bình: “Thế là hết thác… Dòng sông lại hiền hòa. Đêm ấy, nhà đò đốt lửa bên hàng đá, nướng ống cơm lam…”.

Nguyễn Tuân đã đem đến cho nền văn học nước nhà một kiệt tác vô cùng độc đáo, một phong cách nghệ thuật riêng biệt, uyên bác và tài hoa. Khép lại những trang văn của bài Người lái đò sông Đà, tôi vẫn không ngăn được cảm giác lâng lâng trong tâm hồn, có lẽ đó là những gì đẹp đẽ nhất mà văn học đã mang lại và khơi gợi trong lòng tôi. Tôi có cảm xúc thẩm mỹ tuyệt vời. Rất cảm ơn Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp để nâng niu những giá trị bền vững của cuộc đời lao động và của dân tộc.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Mẫu 4

Tây Bắc là mảnh đất có nhiều nhân duyên với nhiều nhà văn, nhà thơ. Mỗi nhà văn, nhà thơ đều tái hiện, khắc họa hình ảnh Tây Bắc dưới những góc độ khác nhau. Trong đó, Nguyễn Tuân đã khám phá vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây, nhận ra “chất vàng 10” trong tâm hồn con người nơi đây. Bài văn “Người lái đò sông Đà” là món quà ý nghĩa mà ông dành tặng cho mảnh đất Tây Bắc.

Qua tài năng của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên không còn là dòng sông vô tri vô giác mà trở thành một con người có hồn, một nhân vật có tính cách, tâm trạng và vẻ đẹp của tạo hóa.

Trước hết, sông Đà hiện lên là một dòng sông hung bạo đáng sợ. Những tảng đá bên bờ sông “xây thành vách”, “có chỗ vách đá đóng kín lòng sông Đà như cái họng”, “ngồi thuyền quãng ấy hè mà lạnh”. Đôi bờ sông Đà hùng vĩ, hiểm trở, lòng sông hẹp nên nước chảy xiết. Những ghềnh thác, sóng biển hiện ra với sự dữ dội, hung hãn “nước đối với băng, đá đối với sóng, sóng đối với gió”. Tác giả sử dụng những câu văn ngắn trùng nhịp để miêu tả sự dữ dội của thác ghềnh. Nó giống như một mụ phù thủy độc ác “nghèo đói quanh năm và đòi nợ người lái đò nào qua thời gian đó”. Đáng sợ hơn là những cửa lấy nước của sông Đà. Các cửa hút nước này có xoáy rất sâu và lớn giống như giếng bê tông thả xuống sông làm móng cầu bị “đáy xoáy”. Nơi này có khả năng nguy hiểm và là nơi ở của cái chết. Có thuyền kéo xuống, “thuyền đi ngâm dưới đáy sông mươi phút mới thấy xác dưới đáy sông”. Tác giả đã vận dụng kiến ​​thức điện ảnh để mang đến cho độc giả hình dung rõ nét hơn về những chiếc máy hút nước.

Sự hung dữ của sông Đà còn thể hiện ở tiếng thác và trận địa của Đà Giang. Tiếng thác ở đây thật khủng khiếp “ nó gầm rú như tiếng ngàn con trâu rừng rúc rích giữa rừng trúc rừng trúc bùng cháy… cháy da”. Những câu văn của Nguyễn Tuân tác động mạnh vào thị giác, thính giác của người đọc, khắc họa được sự dữ dội, ghê rợn của thác nước sông Đà. Tác giả kể tiếp chi tiết về các trận đánh sông Đà. Đặc biệt là cuộc chiến với người lái đò. Đà Giang hiện lên như một con thủy quái hung dữ và khát máu. Nó cung cấp cho mọi mánh khóe, sử dụng mọi di chuyển, sử dụng mọi cú đánh để hạ gục người lái đò. Qua cách miêu tả của Nguyễn Tuân, người đọc có dịp chứng kiến ​​sự hung bạo, ngang ngược của mẹ thiên nhiên.

Trái ngược với vẻ hung bạo, dữ dội, có những lúc sông Đà hiện lên thật trữ tình. Thủy quái đã lột xác, rũ bỏ thân hình gớm ghiếc để trở thành một thiếu nữ xinh đẹp. Nét trữ tình của sông Đà thể hiện qua hình dáng của dòng sông. Dòng sông Đà mềm mại “ nằm trải dài trên đại dương đá, in bóng mây trời”. Con sông Đà được Nguyễn Tuân so sánh với mái tóc thướt tha của người thiếu nữ. “Sông Đà chảy dài, chảy dài… cánh đồng xuân cháy”. Đó là vẻ đẹp tràn đầy sức sống và thơ mộng, mờ ảo giữa mây trời và núi non. Màu nước sông Đà thay đổi theo mùa và mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng.

Vẻ đẹp của sông Đà còn được tô điểm bởi cảnh ven sông, cảnh trên sông. Khung cảnh thiên nhiên ven sông Đà rất thơ mộng. “Cảnh ven sông nơi đây vắng lặng”, “một hạt ngô đồng…”, thật là một bức tranh tràn đầy sức sống, màu xanh mê đắm hồn người. Bờ sông hoang…cỏ tiên xưa”. Hình ảnh so sánh tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân đã kéo người đọc trở về với thời êm đềm của sông Đà hàng nghìn năm trước.

Tóm lại, Nguyễn Tuân đã khắc họa rất thành công hình ảnh con sông Đà với hai tính cách: hung bạo đáng sợ và trữ tình đẹp đẽ. Nhà văn đã cho ta thấy cái tài ở trí tưởng tượng phong phú, ở những liên tưởng táo bạo, bất ngờ, những so sánh mang đậm dấu ấn cá nhân của Nguyễn Tuân trên những trang văn.

Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Phân tích Người lái đò sông Đà – Model 5

“Người lái đò sông Đà” là bài tùy bút tự nhiên rút trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân. Đây là một thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi này, tác giả đã có dịp được sống với những khoảnh khắc quen thuộc và thú vị nhất của đời mình. nghệ sĩ trong anh. Anh cảm nhận được “thứ vàng thứ mười đã qua lửa thử thách” của người lao động bình dị ở miền sông nước hùng vĩ và thơ mộng. Có thể nói “văn chính luận là bài ca về vẻ đẹp của người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, nhưng tiêu biểu dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân là hình tượng người lái xe vừa anh hùng, vừa tài hoa. nghệ sĩ trong nghề của mình.

Trong các tác phẩm của ông, dù viết trước hay sau Cách mạng Tháng Tám, nhân vật chính luôn được ông xây dựng thành những con người đặc biệt, những nghệ sĩ tài hoa. Hình ảnh người lái đò cũng không phải là ngoại lệ. Khi đọc tác phẩm, chúng ta sẽ ấn tượng đầu tiên với ngoại hình của anh: “Hai tay anh khập khiễng như một cây sào, hai chân lúc nào cũng khuỵu xuống như bấu vào một cái cần lái tưởng tượng. Giọng anh sang sảng như tiếng nước trước ghềnh, mắt anh ngân ngấn nước như hằng mong một bến xa trong sương…”. Vóc dáng ông khỏe khoắn như một thanh niên mười tám đôi mươi: “Tuổi gần bảy mươi, cái đầu vuông vức của ông tựa trên một thân hình cao và rắn chắc như sừng, mun… ông giơ tay. , những cánh tay thanh niên cường tráng che đi cái đầu trọc lóc. Không ai không lầm tưởng mình đang đứng trước một chàng trai ngồi ngoài bến chính bên sông.” Những dòng này người viết viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình của một người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu nghề trong con người ấy, chỉ có yêu nghề, gắn bó sâu sắc với nghề, bao năm cùng hành khách trên dòng sông Đà hùng vĩ, ngoại hình mới mang đậm dấu ấn nghề nghiệp như vậy.Đây là lối viết riêng của Nguyễn Tuân, ông luôn nén câu văn bằng nhiều điều ông muốn nói, “Nội dung thông tin” không bao giờ chỉ ở một tầng rõ ràng, chỉ khi đọc kỹ, chúng ta mới phát hiện ra, khám phá ra nhiều tầng ngôn ngữ ẩn chứa trong từng câu chữ của tác giả.

Nhưng mô tả vật lý một mình là không đủ. Ở người lái đò có nhiều điều kỳ diệu mà đặc biệt của một người từng trải với nghề. Anh là một linh hồn bất diệt của non sông này. “Trên sông Đà, chàng ngược xuôi, chàng đi ngược lại hơn trăm lần, sáu mươi lần giữ người lái đò cho những chuyến chèo đò”. Kinh nghiệm ấy còn được thể hiện qua trí nhớ siêu phàm của ông. Trí nhớ ấy được rèn luyện cao độ bằng cách dùng mắt nhớ kỹ 73 ngọn thác, như đinh đóng cột tất cả các dòng chảy của ngọn thác nguy hiểm. Hơn nữa, sông Đà đối với người lái đò giống như một bản anh hùng ca mà anh thuộc lòng ngay cả những dấu chấm than, những đoạn xuôi dòng. Khi được tác giả hỏi, người lái đò đã bảy mươi tuổi, làm công việc đó mười mấy năm liền, mấy mươi năm đã nghỉ việc, nhưng ở ông, sự bền bỉ dường như không bao giờ thay đổi. Anh vẫn rất tự tin rằng: “Tôi bỏ nghề lâu rồi, nhưng giờ có lên thác xuống ghềnh mới dám đọ sức với bạn thuyền nhiều châu lục mà lãnh thổ đã trải dài đến tận bờ sông. Sông Đà còn đâu mềm dẻo để trở về hạnh phúc, một đoàn công tác của Trung ương ngược xuôi khảo sát toàn bộ sông Đà cho đến tận biên giới Trung Quốc”.

Nhưng trên hết, hình ảnh ông lái đò xưa được khắc họa rõ nét nhất qua trận thủy chiến với sông Đà. Vẻ đẹp nghị lực của người lái đò được miêu tả trong mối liên hệ với vẻ đẹp của dòng sông Đà dữ dội và hùng vĩ. Chỉ trải nghiệm thôi chưa đủ, đối với sông Đà, ai muốn chinh phục được nó cần phải có lòng can đảm, dũng cảm, sự khéo léo, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán. Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật của mình vào một hoàn cảnh khốc liệt mà tất cả những phẩm chất đó được bộc lộ, nếu không muốn nói là phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Đây là dụng ý của tác giả khi viết về hình tượng người lái đò, phẩm chất gan dạ, dũng cảm, kiên cường chỉ được thể hiện rõ nhất khi chủ thể gặp khó khăn, nguy hiểm. Giả sử người lái đò được đặt trong khung cảnh thơ mộng, trữ tình của sông Đà thì hình tượng ấy lại phát triển theo một hướng khác, trở thành một chất nghệ sĩ nồng nàn hòa lẫn với thế giới nhân vật trước Cách mạng của Nguyễn Tuân. Và ở đây, người lái đò đã trở thành người anh hùng nghệ sĩ trong sử thi trèo ghềnh vượt thác. Đó là dòng thác nguy hiểm, chết chóc, diễn ra nhiều đợt, nhiều đợt như một trận đánh mà kẻ thù đã lộ ngay bộ mặt và dã tâm của kẻ thù số một, lực lượng đi sau, đội chống đối. , đá trung vệ với nhiều thủ đoạn nham hiểm để tạo thành một thế lực hùng mạnh, đông đảo, hung hãn và nham hiểm.

Sông Đà đã phân công công việc cho từng hòn đảo, họ có một bát quái đồ với ba mầm sống. Vi khuẩn một có 4 cửa tử và 1 cửa sinh. Sóng trận bắn thẳng, mặt nước ầm ầm đánh gãy mái chèo vũ khí của người lái đò, nhưng anh ta vẫn hai tay cầm chắc mái chèo. Vì thế, sóng càng đe dọa, hung hãn, hiếu chiến như thể quân đội đang liều mạng với mình. Nước bám vào thuyền như một vật gì bám vào eo người lái đò bị lật giữa dòng nước. Khi sông Đà giáng đòn thập tử nhất sinh vào kẻ thù, người lái đò không run tay, cố nén vết thương, chân vẫn bấu chặt vào cần lái, mặt tái mét. Ông chỉ huy rất ngắn gọn và tỉnh táo, tài tình như một người chỉ huy đang chèo lái con thuyền vượt qua sóng gió của nghịch cảnh. Sau khi phá được vi thạch thứ nhất, ông lái thuyền phá vòng vây thứ hai. Con vi khuẩn thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử để lừa thuyền vào, cửa sinh được bố trí trôi dạt bên hữu ngạn, rất nham hiểm xảo quyệt, bản tính hung hãn như dã thú.

Bốn năm lính thủy từ cảng bên tả ngạn lao ra nhử thuyền vào nhóm tử thủ. Nhưng người lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, không một phút giây ngơi nghỉ, người lái đò đã nắm chắc bờm cho con sóng đi đúng hướng, nắm chắc đúng dòng nước mà lao vào cửa sinh. chạy chéo về phía cửa đá. Nó khéo léo. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải và bên trái đều là kênh chết, dòng sông nằm ngay giữa quân phòng thủ. Một người lái đò và sáu người leo núi, tưởng chừng như những con người thật nhỏ bé, ẻo lả, kiệt quệ giữa thiên nhiên khốc liệt. Nhưng không, như một vị tướng lão luyện, dày dặn kinh nghiệm trận mạc, ông lão phóng chiếc thuyền trần thẳng qua cửa giữa. Con thuyền đi qua cổng đá, hai cánh mở ra rồi khép lại. Bay vút, bay vút, cửa ngoài, cửa trong đến cửa trong cùng, con thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên qua vừa tự động chèo lái. Đó là cái kết.

Tác giả đã dày công miêu tả trận thủy chiến của ông lái đò xưa với sông Đà. Đa dạng các hành động nhanh, mạnh: Tăng tốc, phóng thẳng, lao thẳng, xuyên phá, xuyên nhanh… Kết hợp với nhịp điệu dồn dập, văn xuôi căng thẳng, các câu văn dồn dập gợi lên một cuộc giáp chiến. để lại một người sống, một người chết. Hơn nữa, nghệ thuật thư pháp tương phản được sử dụng triệt để và rất độc đáo trong tác phẩm đã xây dựng nên hai phe đối lập: một bên là bản chất tàn bạo, hung bạo và một bên là bản chất nhỏ bé nhưng đầy bản lĩnh của con người. bản lĩnh, lòng dũng cảm và khả năng chinh phục thiên nhiên kỳ thú. Người lái đò trong tay chỉ có một mái chèo “Như gậy giữa sóng thác” như một vị tướng bách chiến bách thắng, công phá thành.

Bằng ngòi bút tài hoa và sự uyên bác, am hiểu mọi lĩnh vực như thể thao, võ thuật, quân sự…, Nguyễn Tuân đã biến một câu chuyện bình thường thành một bản anh hùng ca, biến ông thành một người lái đò bình thường. trở thành anh hùng, nghệ sĩ lái đò trong nghệ thuật vượt thác, vượt thác. Anh vừa là anh hùng, vừa là nghệ sĩ – người lái xe hoa, anh tiêu biểu cho hình ảnh người con người lao động trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Không phải chỉ có cô Đào trong truyện ngắn “Mùa thu” của Nguyễn Khải tình nguyện lên Điện Biên xây dựng nông thôn mới, đâu chỉ có lớp thanh niên “Tuổi hai mươi đã thấy hướng đời/ Sao mà xa vời vợi”. lên đường”, cùng với họ, người lái đò sông Đà đã góp phần tô đậm, tôn lên vẻ đẹp, phẩm chất của người lao động trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 55-60.

Quả thật, vẻ đẹp của “chất vàng đã qua lửa thử” trong lòng người dân Tây Bắc đã được Nguyễn Tuân dày công khám phá bên dòng Đà Giang ẩn mình. Nếu con sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một của con người” thì cũng chính thiên nhiên qua ngòi bút của nhà văn đã tôn vinh giá trị sức lao động của con người. Thật là sâu sắc khi nói rằng “Bài văn Thiện là bài ca về vẻ đẹp của con người lao động trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Tác phẩm sẽ mãi là bản hùng ca hào hùng đi cùng năm tháng.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Model 6

Tùy bút Sông Đà là tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Tuân sau năm 1945. Trải qua những bước chuyển mình khốc liệt, Nguyễn Tuân vẫn trung thành với thể loại tùy bút và liên tục gặt hái những thành tựu rực rỡ.

Với những chi tiết thơ trong sáng, giàu sức gợi, Nguyễn Tuân không chỉ mang đến cho người đọc những hiểu biết phong phú, đa diện về sông Đà, thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc mà còn khơi gợi ở họ. Tôi có cảm giác và tin vào tình yêu. Chính trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ vừa hung bạo vừa trữ tình ấy, Nguyễn Tuân đã khắc họa rõ nét chân dung con người Tây Bắc mà cụ thể ở đây là hình ảnh người lái đò sông Đà qua cái nhìn và cách miêu tả. của Nguyễn Tuân. Người lái đò không chỉ là một người lao động trí óc vĩ đại mà còn là một nghệ sĩ thực thụ trong công việc sông nước của mình.

* Trước hết, nhân vật người lái đò được nổi bật qua hình dáng độc đáo, nghề nghiệp cùng với sự hiểu biết sâu sắc về sông nước.

Về ngoại hình của ông lái đò: Mọi chi tiết Nguyễn Tuân miêu tả đều gắn liền với nghề và việc nước của ông (tay ông lủng lẳng như cái sào, chân luôn khụy,…). Người lái đò là một người tài ba, am hiểu sông Đà như chính bàn tay của mình. Anh thuộc lòng từng dòng thác, từng dòng nước hút, dòng nước xoáy. Thậm chí từng tảng đá dưới sông. Theo Nguyễn Tuân, người lái đò hiểu là: “binh pháp của thần sông, thần đá,…” Người lái đò là một người dũng cảm, hàng ngày ngược xuôi sông Đà, đối mặt với gian nguy, hiểm nguy. với cái chết, nhưng phong thái của ông vẫn rất bình tĩnh, hoạt bát, tự tin, không chút sợ hãi. Một phẩm chất của người lái đò là tài năng nghệ sĩ: thể hiện sự khéo léo, điêu luyện, điều khiển con thuyền vượt qua thác ghềnh, bằng tay lái “hoa lá cành, nhưng chỉ một nét sơ sài, chói tai hay lóa mắt”. Mỗi lượt đều phải trả giá bằng mạng sống của họ.”

Phẩm chất của người lái đò được thể hiện tập trung và đầy đủ nhất qua cuộc đọ sức sinh tử giữa người lái đò và sông Đà. Con sông càng hung dữ, nham hiểm, hiểm độc bao nhiêu thì chân dung ông càng hùng vĩ bấy nhiêu. Người lái đò là một người khiêm tốn, giản dị. Sau khi đưa thuyền vượt qua ghềnh thác vào bờ an toàn, tối hôm đó, ông lái thuyền cùng các bạn chèo ngồi canh lửa và nướng cá trong hang. Họ say sưa nói về loài cá dầm xanh, cá Anh Vũ nhưng chưa hề nói gì về những hiểm nguy vừa trải qua. Đối với người lái đò, đó chỉ là một công việc bình thường hàng ngày, không có gì phải lo lắng.

Có lẽ người lái đò sông Đà đã gắn bó với dòng nước dữ dội này từ thuở ấu thơ, cuộc đời của ông được tính bằng những con sóng, bằng những mùa nước trên sông. Nhìn vẻ ngoài của người lái đò, anh ấy thực sự là một người đàn ông sinh ra để dành cho nghề của mình. Mỗi chi tiết miêu tả của nhà văn Nguyễn Tuân đều gợi nhớ đến dòng sông và cái nghề “Tay anh lủng lẳng như cái sào, chân anh khum lại” như chiếc vô lăng. Hình dung giọng anh lúc nào cũng ào ạt như nước trước ghềnh, cứ lảng vảng với anh như luôn vọng về một bến xa nào đó trong sương mù.”

Hầu hết các nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Tuân đều là những người tài hoa, nghệ sĩ (khái niệm nghệ sĩ ở đây cần được hiểu theo nghĩa rộng; không chỉ nói đến những người làm nghệ thuật mà là tất cả những người làm nghệ thuật). kể cả những người thể hiện sự thành thạo và điêu luyện trong công việc và nghề nghiệp của họ). Người lái đò trong bài văn “Người lái đò sông Đà” là một người như vậy. Để làm nổi bật tài trí, sự gan dạ và dũng cảm tuyệt vời của người lái đò, Nguyễn Tuân đã tái hiện một chuyến vượt bè của ông ở đoạn sông hiểm trở nhất. Hai đối thủ không đội trời chung: sông Đà và người lái đò bộc lộ hết tính cách khi bị đặt vào một cuộc giao tranh ác liệt. Đây cũng là cơ hội tốt để Nguyễn Tuân thể hiện hết sự uyên bác, giàu có trong ngôn từ.

* Người lái đò là một người dũng cảm và tài giỏi, làm sao anh ta có thể đếm được số lần anh ta vượt thác?

Từ lần đầu tiên anh cầm lái ca nô rồi trở thành người chỉ huy trên con thuyền nhỏ bé này. Những dòng nước, những xoáy nước, những tảng đá trên sông bao năm qua đã in vào não anh quen như lòng bàn tay. Nhưng sự khốc liệt và mạnh mẽ của cái nghề mà người lái đò gắn bó khác với đời thường, càng hiểu sông Đà, người qua thác càng phải cẩn thận bởi một chút sơ sẩy cũng phải trả giá bằng mạng sống. Kẻ thù thân thiết ấy, người bạn phản nghịch ấy không chấp nhận một lỗi lầm nào, từng phút từng giây vẫn thấy bọt bèo dưới chân. Người lái đò cũng phải căng mình như dây đàn để đón nhận mọi sự thay đổi dù là nhỏ nhất của dòng sông. Hình tượng người lái đò trên sông Đà được tạo nên trong tùy bút Nguyễn Tuân như được nhào nặn rất nhiều từ nhiều chất liệu. Trong hình ảnh đó có cái hoang dại dữ dội của một thời đội đá vá trời, cái tài thoát ly của một kẻ định cư trên non sông rộng lớn, cái trí sắc bén của một vị tướng từng vượt mây phá quân thù, cả cái chất ung dung, lãng tử của những tráng sĩ thủy chiến Lương Sơn Bạc.

Những khía cạnh, cá tính mạnh mẽ ấy được Nguyễn Tuân dồn nén vào hình tượng người lái đò và để ông khẳng định mình một lần nữa trong đàn đá sông Đà. Sông Đà – dòng sông với bao sự kiêu ngạo đã đe dọa con người bằng tất cả vẻ tinh quái của nó. Hung dữ và xảo quyệt, dòng sông trở thành kẻ thù của người dân Tây Bắc và đặc biệt là những người dân sống trên đầu sóng sông Đà. Chỉ cảm thấy mái chèo chạm mặt nước, cả dòng sông rùng mình, vội vã chuẩn bị cho trận chiến nghiền nát con thuyền. Sông Đà kiêu hãnh với bốn cửa trùng điệp. Mỗi dòng sông qua con mắt nhìn nhận và miêu tả của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như một con ngựa mắc kham, có lúc hiện ra như một con thủy quái khổng lồ, hung ác, nham hiểm, thâm độc: sông Đà. Bày đủ loại đá nguy hiểm để thử thách mọi người, người lái đò xuất hiện như một chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, khéo léo điều khiển con thuyền vượt qua ghềnh thác nguy hiểm, phá bửu đồ. bát của dòng sông hung bạo. Không chỉ vậy, người lái đò còn được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả là một nghệ sĩ, tài hoa, chủ động đưa thuyền qua ghềnh thác, nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, thuộc lòng các dòng suối. “cửa sinh, cửa tử”. Đây thực sự là cuộc chiến một mất một còn, đòi hỏi người lái đò phải dũng cảm, mưu trí và thông minh bởi chỉ cần một phút bất cẩn, mù quáng hay sơ suất sẽ phải trả giá bằng mạng sống.

* Hình tượng người lái đò trên sông Đà được xem như một con người tài hoa “dũng cảm không sợ nguy hiểm, một con người tài hoa nhưng hết sức giản dị, thể hiện sâu sắc ngòi bút tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân suốt đời say mê tìm kiếm tài năng nghệ thuật ở con người. Nhưng xưa nay, người viết chỉ tìm được những mảnh vụn rời rạc, bơ vơ của một thời đã qua mà bây giờ chỉ còn vang vọng. Nhưng giờ đây, hành trình đi tìm cái đẹp của Nguyễn Tuân đã tìm thấy “thứ vàng thứ mười đã qua thử lửa” của Cách mạng và kháng chiến – họ cũng nhiều như người lái đò trên sông Đà hôm nay. trong niềm vui và hạnh phúc vì luôn tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, họ sống vượt qua khó khăn, nguy hiểm như một phần tất yếu của cuộc sống để hiểu hơn bao giờ hết nỗi nhớ nhung về “một bến xa”. ở đó trong sương mù. Người lái đò trên sông Đà có lúc là một vị tướng chinh phạt con nước dữ, nhưng cũng sống một cuộc đời thật thanh bình, bình dị: “Đêm ấy, nhà thuyền đốt lửa trong hang, nướng ống cơm và nói chuyện về cá Anh Vũ, cá dầm xanh và có lúc “bơi vô giới” bờ sông hoang sơ như một thời tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm xưa cũ Người lái đò sông Đà có một cuộc sống lãng mạn của một nghệ sĩ trong nghề, có lúc dữ dội, căng thẳng, có lúc bình yên, đôi khi mơ màng, họ bằng lòng với cuộc sống của mình: Cuộc đời họ hàng ngày chống chọi với dòng sông Đà hung dữ, hàng ngày lấy mạng sống từ những dòng thác nên chẳng có gì là hồi hộp đáng nhớ, khi dừng chèo họ nghĩ thế”.

* Nét nghệ thuật của tác phẩm

Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác, tài hoa, đọc nhiều, đi nhiều, biết nhiều, am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, tác phẩm “Người lái đò sông Đà” đã tiếp nhận một lượng tri thức rất phong phú, đa dạng về lịch sử, địa lý, địa chất thậm chí cả quân sự, võ thuật.

Trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” người đọc cũng rất ấn tượng với hình ảnh con sông Đà – một dòng sông hung dữ nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình.

Nguyễn Tuân có ý thức sử dụng thế mạnh của các nghệ thuật khác để tăng thêm vẻ đẹp cho văn chương. Anh vận dụng nhiều kiến ​​thức về âm nhạc, sân khấu,… để mang đến cho người đọc những trang viết hấp dẫn, thú vị

Phong cách miêu tả của Nguyễn Tuân rất phong phú và đa dạng. Ông không chỉ miêu tả bằng thị giác mà còn bằng xúc giác,… Đặc biệt, ông sử dụng nhiều hình ảnh so sánh độc đáo, bất ngờ, gợi cho người đọc những cảm xúc, …. Câu văn của ông thay đổi rất linh hoạt, có câu ngắn, nhịp nhanh, diễn tả cuộc đấu trí giữa người lái đò và sông Đà, tạo nên kịch tính hấp dẫn. Đôi khi tác giả sử dụng những câu văn dài đầy suy tư, mơ mộng.

Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân rất phong phú, ông dùng từ rất chính xác. Thầy đúng là phù thủy ngôn từ, có quyền năng điều binh khiển tướng, điều binh khiển tướng tấn công bức tường tri thức, tạo nên thành quả vĩ đại, có sức mạnh đưa con người vào thế giới. cuộc phiêu lưu tuyệt vời.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 7

Tùy bút Người lái đò sông Đà là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập Người lái đò sông Đà (1960). Viết bài tùy bút này, Nguyễn Tuân tự nhận mình là người đi tìm cái vàng thứ mười của sông núi Tây Bắc và đặc biệt là thứ vàng thứ mười có sẵn trong tâm trí của tất cả những người hôm nay đang thiết tha gắn bó với ngành. Xây dựng cho Tây Bắc tươi sáng, hạnh phúc và bền vững hơn. Cái ngàn vàng ấy của con người là người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, người lái đò vừa là anh hùng, vừa là nghệ sĩ tài hoa của nghề.

Không phải ngẫu nhiên, để nói về màu sông núi, Nguyễn Tuân chỉ dùng một chữ vàng. Để rồi sau này, Người sẽ dùng chữ vàng mười để gọi tên những vẻ đẹp, giá trị đáng quý của người dân lao động. Điều đó chứng tỏ, trong cảm xúc thẩm mỹ của tác giả “Người lái đò sông Đà”, con người đẹp hơn tất cả và đáng quý hơn tất cả. Với “Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân đã dựng lên hình ảnh một con sông Đà mà ông muốn “nhìn thẳng vào mặt và vào lòng kẻ thù số một” nhưng cũng đúng khi nói rằng thiên nhiên cũng là danh giá số một của con người. . Người lái đò sông Đà kia sẽ là ai nếu con thuyền của anh không phải vật lộn với “Dòng thác beo chảy âm ỉ trên sông đá”? Có thể anh sẽ mang một vẻ đẹp nào đó của người đánh cá, người đánh cá, người lái đò nhưng sẽ không trở thành đối tượng của một khúc ca sử thi. Ngược lại, sự hùng vĩ của sóng, của thác, của sông Đà Giang đã làm sáng lên hình ảnh đẹp nhất, hào hoa nhất của con người, người lái đò trên sông Đà, người anh hùng, người nghệ sĩ chinh phục thiên nhiên hùng vĩ. .

Người lái đò Sông Đà trước hết là một ông lão đã ngoài bảy mươi, phần lớn cuộc đời của ông là người lái đò dọc sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên sông Đà người đi xuôi, người về trăm lần, riêng người lái đò sáu mươi lần” trong suốt hơn mười năm làm nghề lái đò, một nghề nguy hiểm, gian khổ. đau khổ này. Đây là một người từng trải, hiểu biết, chèo thuyền rất thành thạo và đã đạt đến trình độ “Nhắm mắt và ghi nhớ tỉ mỉ như đinh đóng cột tất cả các vùng nước của mọi thác nước hiểm trở. “. Nguyễn Tuân bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với người đàn ông này: “Người lái đò sông Đà như một người anh hùng, biết cả dấu chấm than, dấu câu và cả đường xuôi dòng”.

Thoạt nhìn, đó là một cuộc chiến không cân sức. Bởi đó là cuộc chiến mà bên này thiên nhiên to lớn, dữ dội và hiểm độc, với sức mạnh được nâng lên tầm thần thánh, có sông nước gào thét vật lộn với thuyền, có mảng đá ba tầng. . được bao bọc bởi những mầm mống, được bảo vệ bởi những viên đá ngỗ ngược, hỗn loạn và nham hiểm; còn bên kia là một con người nhỏ bé, không có phép màu, vũ khí trong tay chỉ là mái chèo – đôi gậy thật mong manh trước sự hùng vĩ của sóng biển – trên con thuyền lẻ loi không nơi nương tựa. Người xưa vẫn coi “Cưỡi gió to, đạp sóng dữ” là biểu tượng của lý tưởng sống anh hùng. Người lái đò này dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng là người cưỡi gió cưỡi sóng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép lạ, không có vòng tay của Hec Quyn để sánh vai cùng sức mạnh của Thủy Tinh. Nhưng ông đã “nắm vững mưu kế của thần sông, thần đá”, kinh nghiệm chèo thuyền ngược dòng thác ghềnh và sự khôn ngoan đó đã khiến ông cầm lái dù trong tay chỉ có một mái chèo (một cây gậy nhỏ trong giữa nguy hiểm). sóng Nga) vẫn có thể công phá thành như một vị tướng chiến thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống lại thiên nhiên. Cảm hứng hào hùng đã khiến nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả cuộc vượt thác Sông Đà hàng ngày thành một trận kỳ ảo hấp dẫn, thành bài ca ngợi chiến công của người anh hùng. Cuộc chiến đấu của người lái đò có thể chia thành 3 giai đoạn để vượt qua vòng vây của thác nước và đá sông.

Ở vi-rút thứ nhất: Vừa vào trận, sóng và đá sông ập vào, ập vào, bẻ gãy cán chèo không khí, đá vào bụng trái mạn thuyền, vào mạn thuyền. Nước như một đô vật, túm lấy eo người lái đò rồi giáng một đòn độc, đánh vào chỗ hiểm. Nhưng người lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt vào cần lái, khuôn mặt méo xệch. Con đò chèo vẫn nghe rõ khẩu lệnh ngắn gọn và tỉnh táo của người lái đò, người lái đò thực sự là một dũng sĩ, rất bình tĩnh nén mọi đau thương để chiến thắng quân thù.

Ở mầm thứ hai: Giặc thay đổi chiến thuật, chúng tăng thêm nhiều cửa tử. Cửa sinh lệch sang tả ngạn, lẩn khuất, bí hiểm hơn trong đợt virus trước, nhằm đánh lừa con thuyền. Nhưng người lái đò nắm chắc chiến lược của thân sông, đá thần thuộc quy luật mai phục của các tảng đá. Ông “Cưỡi lên thác Sông Đà phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ”. Nắm lấy bờm sóng đi đúng hướng, người lái đò nắm lấy dây cương nhanh chóng tiến vào cửa sinh, lái con thuyền chéo nhanh, bất ngờ làm cho tất cả thủy quân không kịp phản ứng, khiến cho “Chàng trai đá tướng đứng mũi chịu sào”. bước vào với khuôn mặt nhợt nhạt thất vọng.” Người chỉ huy thông minh và tài giỏi biết bao.

Ở mầm thứ ba, ít cửa hơn, phải và trái đều là kênh chết. Dòng đời ở ngay giữa dòng thác. Người lái đò, như một người chỉ huy lão luyện, cứ thế xuyên thẳng con thuyền, xuyên qua cửa, lọt vào giữa, “Vút vút, cửa ngoài, cửa trong, cửa trong, cùng một con thuyền như mũi tên tre đâm nhanh qua. hơi nước, vừa xuyên vừa tự phát, có thể lái, lướt.” Sử thi vượt thác đạt đến cao trào. Thuyền lướt nhanh trên sóng nước Sông Đà. Trên con đò cao vút ấy, ta thấy rõ hình ảnh người lái đò anh hùng vừa dũng cảm, vừa thông minh, tài giỏi. Thế là dòng thác dữ không ngăn được thuyền. Cuối cùng, vẫn là con người chiến thắng thần lực của tự nhiên, vẫn là con người cưỡi ghềnh thác, xé nát từng lớp từng lớp vi trùng, để các tướng lĩnh phải tỏ ra hiền lành. , thất vọng, qua mặt xanh lét. Người lái đò đã vượt qua được sóng, nắm được bờm sóng, chế ngự được sự dữ dội của dòng sông.

Cũng cần nói thêm rằng trong cuộc chiến này nguyên nhân chiến thắng của con người không phải là điều bí ẩn. Chẳng qua là sự bền bỉ, lòng quyết tâm và đặc biệt là kinh nghiệm vượt sông, vượt ghềnh thác đã giúp con người nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá và nhờ đó mà biến mất. khôi phục lại hơi thở của thác nước với hơi thở của con báo. Người lái đò Sông Đà là bản anh hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi sự lao động vẻ vang đã đưa con người đến chiến thắng vẻ vang trước sức mạnh thần thánh của dòng sông hung dữ. Đó là những yếu tố làm nên phẩm chất vàng mười của người dân Tây Bắc nói riêng và của người lao động nói chung.

Trong âm hưởng tuyệt vời của khúc hát vượt thác, nhà văn biến tấu trò chơi bằng vài nét tả nhẹ nhàng, thủ thỉ “Dòng sông ngoằn ngoèo bến cát có hang lạnh Thác đổ, sóng rì rào tan trong nhớ Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng nồi cơm lam và tất cả đều nói về Anh Vũ và cá dầm xanh, tôi không thấy ai nói về chiến thắng vừa rồi”. Ở đây, ta lại thấy thêm một vẻ đẹp khác của người lái đò, người lái đò. Họ anh dũng biết bao, cuộc sống của họ là hàng ngày chiến đấu với dòng sông Đà hung dữ để giành lấy sự sống từ dưới thác nên không có gì gọi là hồi hộp đáng nhớ. Điều phi thường đã trở thành điều bình thường. Phẩm chất của một người lính đã được trộn lẫn với phong cách của một người tài tử và nghệ sĩ. Dường như cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp “Phẩm chất vàng mười” của người lao động bình dị Tây Bắc trong một lần vượt sông Đà, Nguyễn Tuân đã không kìm lòng được. Trước khi chia tay họ để gặp lại dòng sông, ông giữ một ước nguyện thật đẹp và chân thành “Tôi nghĩ sau này nếu làm phim màu về Sông Đà, tôi phải đưa ống máy lên máy bay, cho nó bay thác. nhưng hạ máy và cuốn máy theo những dòng sinh thành của dòng thác trên thác tự hào một người lái đò Sông Đà có tự do, bởi người lái đò ấy đã nắm được quy luật tất yếu của dòng nước Sông Đà.

Tham Khảo Thêm:  lời bài hát gửi về quan họ

Trong Người lái đò sông Đà, những con người được ví như cục vàng đáng quý chỉ là những người lái đò, lái đò nghèo, thân thể còn in dấu vết khắc nghiệt của công việc lái đò vô cùng gian khổ. gian nan, gian khổ, nguy hiểm. Và một điều nữa: Tất cả những người lái đò trong bài luận, không có ngoại lệ, đều làm việc lặng lẽ, giản dị, hoàn toàn ẩn danh, vì tác giả từ chối nêu tên bất kỳ ai trong số họ. . Tuy nhiên, Nguyễn Tuân cũng cho thấy những con người vô danh đó đã trở nên vĩ đại, kỳ vĩ nhờ lao động và đấu tranh chinh phục thiên nhiên. Những người lái đò rất bình thường này không mang họ riêng. Nhưng cũng vì thế mà đứng trước thiên nhiên khắc nghiệt, chúng hiện lên với tư cách là đại diện của con người. Có lẽ đó chính là nguồn cảm hứng thôi thúc Nguyễn Tuân quyết định tung ra một đội quân ngôn từ hùng hậu để miêu tả thật hùng tráng và hấp dẫn cuộc chiến đấu của người lái đò với dòng sông để đưa thuyền vượt thác. Sử dụng nghệ thuật ngôn từ, rồi nghệ thuật hội họa, âm nhạc với vốn hiểu biết trong chiến đấu, trong võ thuật với nhiều hiểu biết sâu rộng khác để khắc họa, ngợi ca nhân vật nhưng vẫn thấy chưa thỏa mãn. đủ ở đây người viết sử dụng phương pháp điện ảnh. Hình ảnh người lái đò kiêu hãnh hiện lên trong ống kính của người nghệ sĩ, cao lớn và lung linh như một thiên thần. Cùng với vẻ đẹp của người anh hùng dũng cảm, tài hoa một thời chiến thắng thác ghềnh, người lái đò còn tô thêm một “chất vàng” khác, người lao động có được sự tự do vươn tới sự trưởng thành, điêu luyện bởi họ đã làm chủ được thiên nhiên, chế ngự được thiên nhiên, đem lại ấm no cho đời. giàu đẹp cho đất nước. Ca ngợi người lao động, phải chăng Nguyễn Tuân muốn ca ngợi lao động, ca ngợi con người? Con người trong mắt người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác Nguyễn Tuân luôn là hiện thân cho vẻ đẹp của nghệ thuật bất tử. Chính điều này mà người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân đã có điểm gặp gỡ với nghệ sĩ người Nga M.Gorki “Con người! Tiếng đàn ấy thật tuyệt vời! Tiếng đàn ấy kiêu hãnh và hùng vĩ làm sao”.

Đọc “Người lái đò sông Đà” nghĩ về nhân vật người lái đò ta lại nhớ đến Huấn Cao, một hình tượng đặc sắc trong tác phẩm “Chữ người tử tù” một sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám. Tất nhiên, nhân vật người lái đò trong bài văn không hiện lên với đầy đủ phẩm chất, tính cách của nhân vật ông Huấn Cao trong truyện ngắn. Chúng có nhiều nét khác nhau bởi chúng xuất hiện ở hai thời kỳ khác nhau của lịch sử đất nước, cũng bởi sự thay đổi trong phong cách nghệ thuật và cảm hứng thẩm mỹ của nhà văn. Nhưng cả hai đều giống nhau ở phẩm chất nghệ sĩ, chiến sĩ, vẻ đẹp cao siêu của con người trong địa vị xã hội, trong công việc cụ thể làm người và một nét chung nữa, ông lái đò cũng như ông Huấn đều rạng rỡ. . Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: Tài hoa, uyên bác, đầy sáng tạo bất ngờ trong cách dùng từ, đặt câu và ấm áp một tình người. Xin cảm ơn Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ tài hoa, bằng cảm hứng lãng mạn và ngôn từ thần kỳ đã cho ta chất vàng quý giá của cuộc đời, làm giàu tâm hồn, dạy ta thêm yêu Tổ quốc, con người, cuộc sống.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Model 8

Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi đương đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về vẻ đẹp cuộc sống, con người với những tâm tư, tình cảm gắn bó với quê hương đất nước. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý bởi phong cách nghệ thuật rất riêng, rất độc đáo của Người lái đò Sông Đà, đó là một bài tùy bút, đồng thời cũng là một bài thơ bằng văn xuôi, đã thể hiện được những nét đặc sắc nhất. về phong cách đó.

Người lái đò Sông Đà mong ước là tác phẩm viết về một con người và một dòng sông. Nhưng dưới ngòi bút tâm huyết và tài hoa của ông, mọi cảnh sắc thiên nhiên đều trở thành tác phẩm nghệ thuật, con người trở thành nghệ sĩ tài hoa. Bằng bút pháp quan sát, khả năng miêu tả cùng với một kho từ ngữ vô cùng phong phú, chính xác, Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sinh động, những hình ảnh tráng lệ giàu sức hấp dẫn trong bài tùy bút. độc đáo này.

Người lái đò trên sông Đà trong tác phẩm, trước hết là một ông lão đã ngoài bảy mươi, người đã dành một phần lớn cuộc đời mình cho việc chèo đò dọc sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên sông Đà xuôi, trăm lần ngược, sáu chục lần cầm lái…” trong suốt hơn mười năm làm nghề lái đò đầy nguy hiểm và gian khổ này. công việc gian khổ. . Đây là con người tri thức từng trải, lái đò rất thành thạo, đã đạt đến trình độ “nhắm mắt mà nhớ tỉ mỉ như đinh đóng đinh vào lòng đất mọi dòng nước mọi thác nước nguy hiểm. Nguyễn Tuân viết tiếp”. để bày tỏ sự khâm phục của mình đối với người đàn ông này: “Đối với người lái đò ấy, sông Đà như một trường thiên anh hùng ca mà anh đã biết, với những dấu chấm than, những câu hò, những đoạn xuôi dòng”. Quả là một so sánh thú vị “rất văn chương” và cũng “rất Nguyễn Tuân”.

Hình ảnh người lái đò với “cái đầu hoa râm ấy đặt trên một thân hình cao và rắn chắc như sừng, gỗ mun” và đôi tay vẫn là cánh tay của một “cậu bé”, “còn rất trẻ”, được Nguyễn Tuân gọi đó là “cái vàng mười”. Ông đứng trước những thử thách của sông Đà với sức mạnh của những tảng đá ghê gớm, những cạm bẫy đáng sợ: “Sông quay, bọt sóng đã làm trắng một chân đá. Những bãi đá ở đây từ ngàn năm mai phục dưới lòng sông, dường như mỗi khi có một chiếc thuyền xuất hiện trong không gian vắng vẻ và ầm ầm này, mỗi khi một chiếc thuyền nhô ra làn sóng là một vài hòn đảo sẽ nhô lên. đứng dậy lấy thuyền.” Và trên một chiếc thuyền một mình, anh ta đã chiến đấu như một dũng sĩ: bằng cả hai tay, anh ta giữ mái chèo khỏi những làn sóng chiến đấu và ném chúng vào anh ta. Nước ầm ầm vây lấy tôi, ập vào làm gãy mái chèo, vũ khí trên tay tôi”, và sóng “đánh vào đầu gối và mạn thuyền. Đôi khi họ đặt cả thuyền lên. Nước bám vào bụng gối và mạn thuyền. Đôi khi họ đặt cả thuyền lên. Nước bám vào thuyền như vật siết lấy eo người lái đò, đòi lộn ngược mình giữa dòng nước giông bão. Có lúc tưởng chừng như người lái đò đang chìm trong dòng sông… Cách miêu tả chân thực và táo bạo này cho thấy sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ, con người chỉ cần hoa mắt, sơ sẩy một chút là phải trả giá. với cuộc sống của mình.

Nhưng bản lĩnh và bản lĩnh thôi chưa đủ, điều quan trọng hơn là kỹ năng lái con thuyền của người cầm lái đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả so sánh người lái đò sông Đà với người lái đò lao xuống đèo; Dù rất nguy hiểm nhưng tài xế cũng phanh chân, phanh tay, tiến lùi. “Giống như con thuyền lao xuống dòng thác, không có phanh hãm gì cả, chỉ lao tới chứ không lùi lại, nếu không đâm vào lòng dòng, con thuyền sẽ lật ngang và chìm nghỉm, chứ không hề lùi lại chút nào. …”, vẫn bằng biện pháp so sánh nhưng bằng những hình ảnh táo bạo, gợi lạ, tác giả đã miêu tả dòng sông Đà ngày một đổi thay, mỗi nơi như có một nhóm nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có cách ứng phó. riêng tư. Có chỗ, nước sông “gào thét như sôi đến trăm độ, muốn hất tung con đò phải đóng nắp và nồi nước sôi khổng lồ”. “Nếu nước chảy nhầm là chết ngay”. Lại có những “hút” xoáy sâu như giếng “hút nó hút xuống, thuyền lập tức cắm ngược cây chuối rồi lặn mất tăm”…

Đó là dòng sông Đà hiểm trở, nguy hiểm cho con người. Tuy nhiên, “người lái đò cố nén vết thương, chân vẫn nắm chặt bánh lái…” Tuy mặt mũi “méo mó” vì những cú đòn hiểm, “nhưng trên đò chèo vẫn nghe rõ mồn một những mũi tên. nghe. ngắn gọn sự tỉnh táo của người lái đò. Rõ ràng qua việc miêu tả hết sức dữ dội của dòng sông, Nguyễn Tuân hướng tới một mục đích lớn lao: ca ngợi lòng dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi chiến công vĩ đại của người lái đò vượt qua muôn vàn ghềnh thác, sóng to gió lớn đã đưa con thuyền trở lại bến bình yên không chỉ một lần mà hàng trăm lần trong suốt mười lăm năm làm người lái đò vượt sông Đà. và con người đã chiến thắng, trở về cuộc sống yên bình: “Thế là hết thác Dòng sông ngoằn ngoèo bến cát hang lạnh (…) Dòng sông lại êm đềm Đêm ấy nhà thuyền đốt lửa trong đá hang động, cơm lam nướng ống…”.

Cảm hứng lãng mạn trong sáng, lan tỏa trong từng nét tả thực đã tạo cho đoạn văn một sức hấp dẫn khó cưỡng. Đó là bài ca về lao động, về con người lao động. Mười năm làm nghề lái đò, thậm chí đã bỏ nghề mấy mươi năm, người lái đò vẫn còn “củ khoai nâu” trên ngực, với Nguyễn Tuân, “đó còn là hình ảnh đáng quý của một loại huân chương lao động hạng nhất. “.

Xin cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng tôi được thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho ta tri thức, hiểu biết về đời sống, văn hóa và lịch sử, địa lý, ngôn ngữ…, tác phẩm còn là một khối kiến ​​trúc thẩm mỹ độc đáo, giúp ta cảm nhận được nó là gì. vẻ đẹp sâu sắc, vẻ đẹp của con người cụ thể, con người lao động. người lái đò Sông Đà. Nguyễn Tuân đúng là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động gian khổ nhưng đầy vinh quang.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 9

Đến với tác phẩm của Nguyễn Tuân, mỗi người sẽ tìm thấy cho mình những cảm xúc riêng, sự ngưỡng mộ, khám phá và mong đợi. Dường như dưới bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ đã làm cho người đọc cảm thấy đắm say, như được sống những giây phút thực sự với cảnh sắc thiên nhiên nơi đó. Đây là tài năng sử dụng ngôn ngữ của anh ấy. Đặc biệt qua đoạn trích “Người lái đò sông Đà” tài năng đó càng được bộc lộ rõ ​​nét.

Phải chăng cả cuộc đời Nguyễn Tuân chỉ gói gọn trong chữ “độc đáo”. Là một người độc đáo và khác thường, các đối tượng nghệ thuật của anh ta cũng phải độc đáo. Dưới ngòi bút sung mãn của mình, Nguyễn Tuân đã cho người đọc thấy hình ảnh con sông Đà hung dữ nhưng cũng rất trữ tình. Bên cạnh đó là vẻ đẹp nổi bật của người lao động, chinh phục và làm chủ thiên nhiên.

Trước hết, nét độc đáo của sông Đà được Nguyễn Tuân khai thác ở hai khía cạnh: hung bạo và trữ tình. Chất bạo liệt là nét nổi bật đầu tiên của Nguyễn Tuân được nhắc đến. Vẻ đẹp dữ dội, tàn bạo của dòng sông ở những đoạn thác dựng đứng như có một sức mạnh vô hình hút hồn anh. Đây cũng là lãnh thổ giúp anh có cơ hội thỏa sức tưởng tượng. Anh vô cùng phấn khích khi sắp đến được ngọn thác cuối cùng, khi sắp được tận mắt chứng kiến ​​sự dữ dội của sông Đà: “…Còn lâu mới đến thác dưới. Nhưng tôi thấy tiếng nước mỗi lúc một gần hơn. Tiếng thác nghe như một lời phàn nàn, rồi van xin, rồi khiêu khích, giễu cợt. Rồi nghe như tiếng cả ngàn con trâu húc nhau giữa rừng trúc, rừng trúc bừng bừng lửa cháy rừng rực, rống lên cùng đàn trâu đen đang cháy. Qua đoạn văn có thể thấy được giọng điệu hào hứng, phấn khởi cũng như các giác quan vô cùng nhạy cảm của Nguyễn Tuân, ông nắm bắt được mọi chuyển động của thiên nhiên để từ xa cũng cảm nhận được vẻ đẹp tàn bạo của nó. Đặc biệt, hình ảnh so sánh thác nước như đàn trâu lượn quanh, gầm rú cũng vô cùng độc đáo, miêu tả tiếng thác đổ ào ạt, vừa hồi hộp, kích thích nhưng cũng đầy lo lắng, sợ hãi.

Và ở thác nước, ngòi bút của ông đã thực sự được bộc lộ. Bao nhiêu hứng thú ông dồn hết vào đoạn văn miêu tả sự hung bạo của sông Đà. Những mảng đá xếp ra nối tiếp nhau, nhử thuyền đến nuốt chửng: “Mảng đá vừa dựng xong thì thuyền lao tới, kết hợp với đá, nước thác reo vui làm thanh cho đá, đá thật hùng vĩ. và hùng vĩ. Mỗi đảo trông nghiêng nghiêng, như thể đang yêu cầu thuyền nói tên của nó trước khi chiến đấu. Đảo khác lùi lại một chút và thách thức thuyền tốt đi vào.” Bằng bút pháp nhân cách hóa, trí tưởng tượng phong phú, Nguyễn Tuân đã làm cho những hòn đá vô tri vô giác có khuôn mặt, tâm trạng và bản sắc riêng. Nhưng tựu chung lại, có thể thấy ở họ sự kiêu căng, tự phụ, tự cao mà chèn ép người khác, đặc biệt là dựa vào sự nguy hiểm của tướng.

Nhưng lòng tự phụ của họ không tồn tại được lâu, bởi với bản lĩnh và kinh nghiệm của người lái đò, anh đã nhanh chóng vượt qua họ. Ở đoạn này, bút pháp lãng mạn của ông càng được phát huy cao độ. Dòng sông ương ngạnh, với ba vòng thành đá, với những thủ đoạn khác nhau không thể ngăn cản được ông lái đò già. Ông cưỡi trên từng ngọn sóng, từng dòng nước cuồn cuộn mà vượt qua: “Dòng thác hùm beo hy sinh oanh liệt trên sông Đà. Nắm chắc bờm đi đúng hướng, người lái đò nắm chặt dây cương, nắm chắc đúng dòng nước lao thẳng về phía cửa sinh, lái xéo về phía cửa đá. Bốn, năm năm sau, quân thủy từ cửa nước bên trái ùa ra chộp lấy thuyền lôi họ vào nhóm tử thủ. Người lái đò vẫn còn nhớ mặt những người này, một số người thì anh ta chèo lên tránh được, số khác thì anh ta đè lên và mở đường về phía trước. Những con sóng dữ đã để lại xác con thuyền.” Những câu thơ đó diễn tả cảm giác khoan khoái, sung sướng của người lái đò mới là khi con người đã vươn lên làm chủ thiên nhiên. Đồng thời, những miêu tả chân thực, sinh động đó cũng cho thấy người lái đò tài hoa, kinh nghiệm dày dặn, bản lĩnh là những yếu tố giúp người lái đò vượt qua mọi tử thần để đến đích, qua một cửa sinh duy nhất.

Không chỉ có niềm đam mê, hứng thú đặc biệt với những chốn hiểm trở mà con mắt tinh tế của Nguyễn Tuân còn chứa chan tình yêu khám phá vẻ đẹp mộng mơ, trữ tình của sông Đà. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà đối lập hoàn toàn với sự hung dữ của chúng. Nếu bên trên sông Đà dữ dội, hung dữ thì đến đây thơ mộng, dịu dàng. Đoạn văn thấm đẫm màu sắc văn học nghệ thuật.

Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hay qua khung cảnh thực của sông Đà, không ai có thể nói rõ nhưng đều toát lên vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ. Sông Đà bây giờ không còn hoang dại mà như một cô gái miền núi Tây Bắc, vô cùng tinh tế và nữ tính, đôi nét e ấp: “Sông Đà chảy dài như áng tóc trữ tình, Đầu em vấn vương chân tóc”. thoắt ẩn thoắt hiện trong mây trời Tây Bắc, nở hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói hương đất trời mùa xuân”. Đọc câu văn ta có cảm giác như đang đọc một bài thơ của Nguyễn Tuân. Chất trữ tình lắng sâu trong cảnh, tràn ngập trong từng câu chữ. Chỉ trong một đoạn văn, không quá dài nhưng trước vẻ đẹp trữ tình của dòng sông mà Nguyễn Tuân đã phải hai lần thốt lên “Ôi”. Vì ngắm cảnh đẹp, vì gặp lại người bạn đã xa cách nhiều ngày. Đó là niềm vui, sự hồi hộp và hạnh phúc. Sông Đà là người bạn vong niên của Nguyễn Tuân. Chính tâm trạng sung sướng đó đã khiến ông có đoạn văn đầy xúc động: “Đôi bờ sông Đà, đôi bờ sông Đà chuồn chuồn, bướm lượn trên sông Đà Ôi nhìn sông mà vui như thấy nắng tan sau mưa to, mừng như nối lại giấc mộng đã vỡ, đi rừng lâu rồi bắt về sông Đà, đúng rồi, êm ấm như gặp lại bạn cũ”. Ông không chỉ cảm nhận sông Đà như một người bạn, một người cố gặp lại sau bao ngày xa cách mà ông còn cảm nhận được cái không khí cổ kính, như thời tiền sử hoang vu của đôi bờ sông Đà. Quả thật, có lẽ chỉ Nguyễn Tuân với những xúc cảm tinh tế của mình mới cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của sông Đà ở mọi chiều không gian và thời gian như vậy.

Với tùy bút Sông Đà nói chung và Người lái đò sông Đà nói riêng, chúng ta không chỉ thấy được vẻ đẹp của một nghệ sĩ tài hoa với ngòi bút dồi dào. Nhưng bên cạnh đó, còn thấy được tấm lòng của một con người yêu nước, suốt đời khám phá và tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của con người lao động trong cuộc sống mới.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 10

Nguyễn Tuân – người được mệnh danh là “Người đi tìm cái đẹp và cái chân lý ở đời” không chỉ là một trí thức yêu nước mà ông còn là một cây bút tài hoa, uyên bác. Ông để lại nhiều tác phẩm lớn, tiêu biểu nhất là bài tùy bút Người lái đò sông Đà (1960). Tác phẩm là kết quả của chuyến đi lên Tây Bắc của nhà văn để tìm lửa thử vàng của thiên nhiên Tây Bắc. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau Cách mạng tháng Tám.

Bài văn Người lái đò sông Đà lấy người lái đò làm nhân vật trung tâm nhưng thực chất là mượn hình ảnh người lái đò để miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ, dữ dội và thơ mộng của sông Đà. Mọi vật hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân vừa chân thực, vừa sống động.

Trước hết, Nguyễn Tuân miêu tả vẻ đẹp của sông Đà, được nhân hóa như một con người, có tâm hồn độc đáo, xuất thân rõ ràng, vừa hung bạo, vừa trữ tình. Dòng sông giới thiệu:

“Chúng ta đang ở Biển Đông

Đà Giang độc Bắc Lưu”

Nghĩa là các sông đều chảy theo hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Đây là một cách mở đầu ấn tượng, đập thẳng vào mắt người đọc, hiện lên như một cá nhân rất có hồn. Sông Đà sinh ra ở quận Jingdong, tỉnh Vân Nam. Nó có hai nhân cách. Thứ nhất là cá tính hung bạo và trữ tình, thể hiện ở khía cạnh này: Nguyễn Tuân tả cảnh bãi đá bên bờ sông, “đá xây thành cái lòng sông hẹp, có khi một con nai nhảy từ bờ này sang bờ kia”. bờ bên kia, nhìn từ dưới lên chẳng khác gì nhìn lên một tòa nhà cao tầng vừa tắt đèn, nhất là ở đoạn ghềnh dài hàng ngàn cây số, “nước đụng đá, đá lở, sóng cuộn vào, gió cuốn”. thổi, và gió thổi quanh năm như một kẻ đòi nợ hầu như bất cứ ai đi qua quãng đường đó”. tưởng tượng một anh quay phim dạn dĩ ngồi trên chiếc thuyền thúng cầm chiếc máy ảnh và chìm vào dòng nước xoáy đó, hay đi đến thác nước với những âm thanh dữ dội như những kẻ nguy hiểm hơn đang rình rập, chỉ chực chờ con mồi “tiếng nước kêu”, “tiếng thác nghe như lời than thở… van xin… khiêu khích”. , giọng giễu nhại… nó rống lên như ngàn trâu mộng…”. Nước như một đội quân hùng mạnh, dữ tợn. Đáng sợ hơn cả hình ảnh trong lòng đá như dựng chiến trường với 3 mầm sống. Tiểu thạch đầu mảng: “mở năm cửa ải, có bốn cửa tử và một cửa sinh, cửa sinh nằm chơ vơ bên tả ngạn”, đến thử thách thứ hai, xuất hiện thêm nhiều cửa tử để lừa thuyền vào, cửa sinh là bố trí bên hữu ngạn. Còn trận thứ 3 trận 2 bên tả và hữu là 1 dòng suối chết. Dòng sống ở trận 3 này nằm ngay giữa quân phòng thủ.. Việc bố trí quân vừa theo 1 quy tắc nhất định trật tự ngăn thí sinh vững vàng chèo về đích Họ giống như những cầu thủ chuyên nghiệp trên sân lao ra bảo vệ khung thành, không để kẻ địch hay kẻ ngoài cuộc rình rập gần khung thành Với lối viết tài hoa và bao quát kiến thức, Nguyễn Tuân đã viết câu theo kiểu móc xích, cấu trúc câu giống nhau, luân phiên sử dụng biện pháp nhân hóa, so sánh để làm rõ ý. nổi bật hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, như muốn làm vua cả thiên hạ. Dòng sông ấy hung dữ, hiểm trở, là kẻ thù số 1 của con người.

Trái ngược với vẻ dữ dội ấy, sông Đà còn thể hiện một chất trữ tình nồng nàn dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân. Đi từ thượng nguồn đến hạ lưu ta đều bắt gặp hình dáng rất thơ mộng của dòng sông như một thiếu nữ duyên dáng, trẻ trung, duyên dáng tuổi đôi mươi: “dài bồng bềnh như áng tóc trữ tình”, “dòng sông”. Dạ như tóc mun, dài ngàn vạn thước. Màu nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa, rất đẹp và hấp dẫn, mùa xuân nước suối trong xanh màu ngọc bích, mùa thu nước sông Đà đỏ au như da mặt người bị bầm tím. rượu bia. Sự chuyển màu tạo cho sông Đà một vẻ đẹp huyền bí và quý phái. Nhà văn cũng miêu tả hai bờ sông Đà cũng tươi mát không kém. “Bờ sông hoang sơ như bờ tiền sử”. Sông Đà, dòng sông đã chứng kiến ​​bao thăng trầm của lịch sử, là chứng nhân vĩ đại của lịch sử và cũng là dòng sông đẹp, thơ mộng. Dòng sông ấy gợi bao cảm xúc trong lòng nhà văn, như một “cố nhân”.

Bằng tài năng của mình, Nguyễn Tuân đưa người đọc khám phá một dòng sông Đà nhiều cung bậc, có lúc dữ dội, có lúc trữ tình. Dòng sông ấy dưới ngòi bút điêu luyện của ông được coi như một phát hiện vĩ đại, một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời mà thiên nhiên ban tặng cho Tây Bắc.

Song song với hình ảnh con sông Đà là hình ảnh người lái đò sông Đà – một người lái đò tài hoa, có trí dũng song toàn. Nguyễn Tuân đã miêu tả ngoại hình của ông rất đặc sắc: “tay khập khiễng như cái sào, chân khập khiễng”. Anh quê ở ngã ba sông, người từng trải, mười năm liền lái đò. Ông và sông Đà gắn bó mật thiết với nhau, như người bạn tâm giao. Với kinh nghiệm chinh chiến trên dòng sông ấy nhiều năm, ông nắm chắc từng con lạch, từng ngọn thác và đặc biệt, ông nắm chắc quy luật hoạt động của “thần sông, thần đá” trên sông Đà. Vì biết con sông ấy một cách thấu đáo, tường tận, nên Ngài thích vượt thác, đối mặt với dòng sông ấy. Chỉ bằng vài nét phác giản dị, Nguyễn Tuân đã phác họa một người lái đò yêu nghề, yêu thiên nhiên, thích hòa mình với thiên nhiên.

Vẻ đẹp của người lái đò được nhà văn miêu tả rất chi tiết qua những lần vượt thác. Tay lái hoa mỹ ấy càng khiến người đọc thêm khâm phục về tài năng và bản lĩnh đương đầu với thử thách. Trên dòng sông hùng vĩ và hiểm trở ấy, người lái đò hiện ra với tư thế hiên ngang của một dũng tướng cầm quân xông pha trận mạc. Ông đã chỉ huy con thuyền của mình luồn lách về đích, vượt qua các chướng ngại vật với phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Trong vòng vây đầu tiên, anh ta cầm mái chèo bằng cả hai tay để khỏi bị sóng chiến đấu bắn thẳng vào người. Chân anh vẫn đang nắm chặt vô lăng. Ở vòng vây thứ hai, không được nghỉ ngơi một giây phút nào, anh phải phá vòng vây thứ hai và thay đổi chiến thuật. Chàng cưỡi ngựa đến thác sông Đà, nắm bờm sóng, cầm cương, bám đúng dòng nước rồi nhanh chóng vào cửa sinh. Và ở vòng cuối cùng, ông đã phóng thuyền thẳng, qua cửa giữa. Con thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh hơi nước, vừa xuyên vừa tự động bẻ lái. Vượt biên thành công. Dù có lúc gặp khó khăn, tổn thương nhưng anh vẫn bình tĩnh, dũng cảm để cuối cùng được nếm trái ngọt của thành quả: “đốt lửa trong hang, kể chuyện cá anh hùng”. Trận đánh ác liệt đã kết thúc thắng lợi vẻ vang.

Qua đây ta thấy được người lái đò rất am hiểu binh pháp của thần sông, thần đá là hình tượng nhân vật mới mà Nguyễn Tuân hướng tới – một chân dung người lao động vừa hào hoa, vừa nghị lực. . Táo bạo, trơ trẽn và rất đơn giản.

Tóm lại, “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Bằng tài năng, ngòi bút sâu sắc và vốn kiến ​​thức tổng hợp phong phú, ông đã rất thành công khi xây dựng nhân vật người lái đò hào hùng, hào hoa và hình tượng con sông Đà với hai tính cách tương phản nhưng rất khác nhau. Đẹp. Bài văn “Người lái đò sông Đà” luôn sống mãi trong lòng người đọc và trường tồn theo thời gian.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 11

Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ trong văn học Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm của ông được viết bằng sự “dại dột” và bằng tình yêu nhiệt thành. “Người lái đò sông Đà” là bài văn lấy cảm hứng từ một chuyến đi có thật. Hình ảnh sông Đà nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sĩ với nhiều vẻ đẹp khác nhau mang đến cho người đọc những ấn tượng riêng. Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng hình tượng con sông Đà bằng chất liệu ngôn ngữ giàu cảm xúc.

Qua điểm nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà “có nhiều bệnh tật, có lúc thì hiền lành, có lúc lại ngang nhiên dữ tợn”. Có thể nói, phải thật tinh tế và khéo léo mới nhận ra được sự chuyển mình như vậy của dòng sông.

Sông Đà hiện lên là một dòng sông hung bạo, lắm thác ghềnh, chênh vênh, chảy không theo khuôn khổ. Vẻ đẹp hiểm trở, nguy hiểm của sông Đà được tác giả viết: “Đắp đá lấp sông, xây thành, mặt sông ở đó chỉ có buổi trưa khi mặt trời ló dạng, có vách đá chắn ngang lòng sông như yết hầu. Đứng bên này bờ, nhẹ nhàng ném hòn đá qua bờ bên kia, có lần một con nai và một con hổ nhảy từ bờ bên này sang bờ bên kia.” Chỉ bằng vài nét phác, dòng sông hiện lên với biết bao phức tạp, khó khăn, nguy hiểm khôn lường, tác giả đã miêu tả cảm xúc của mình khi qua đoạn sông này “ngồi lái đò qua đoạn ấy, hè mà lạnh, lòng thấy nao nao. Tôi đang đứng trong con hẻm mùa hè và nhìn lên khung cửa sổ trên bầu trời. Tầng hai vừa mất điện.” Một so sánh độc đáo, táo bạo và không kém phần tinh tế. Sông Đà đẹp nhưng đẹp, vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ và hiểm trở.

Không dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn khiến người đọc ngạc nhiên hơn khi miêu tả sự hùng vĩ, dữ dội mà “mặt ghềnh hát ầm ầm, dài hàng cây số, nước là đá là đá, là sóng, là sóng, là gió bão thổi quanh năm. lòng vòng như luôn đòi nợ người lái đò nào câu được qua quãng đường đó”. Sông Đà hiện lên như một kẻ bất chấp tất cả, có thể cướp đi sinh mạng của những ai vô tình đi qua đây, táo bạo, dữ dội và mạnh mẽ.

Khi Nguyễn Tuân miêu tả tiếng thác, người đọc có cảm giác như mình đang đứng trước một dòng sông hùng vĩ chiêm ngưỡng vẻ đẹp khó cưỡng lại đó. giọng giễu cợt. tiếng thác ầm ầm như tiếng đàn trâu ngàn mộng nép mình giữa rừng trúc rừng trúc bùng cháy rừng rực cháy rừng lửa gầm đàn trâu cháy rừng.” Câu với giọng điệu dồn dập, dồn dập, xúc động. Khung cảnh hùng vĩ, vô cùng hiểm nguy. Phép so sánh tuyệt vời, hiếm thấy trong văn chương. Nguyễn Tuân thực sự là bậc thầy về ngôn ngữ, ông đã thổi sức sống vào câu chữ, làm cho câu chữ như nói được và rung.

Đặc biệt hơn, sông Đà hình thành ba trận thế, người lái đò muốn qua dòng này phải vượt qua ba thế trận nguy hiểm và táo bạo này. Với giọng kể nhanh, tác giả kéo người đọc vào để cùng người lái đò vượt thác. Trận đánh đầu tiên, “nước gầm thét quanh người, ập vào làm gãy mái chèo. Sóng nước dập dềnh như quân liều mạng sát nách…” Trận thứ hai, “tăng thêm tử khí lừa thuyền vào, cửa sinh an bài dạt sang hữu ngạn”. Sang trận thứ 3 có vẻ ít cửa hơn nhưng quyết liệt và gay cấn hơn. Sông Đà hiện lên như một con thủy quái chực nuốt chửng người lái đò và con thuyền bất cứ lúc nào có thể. Con vật sống là “kẻ thù số một” của người lái đò, với tất cả những đặc điểm nham hiểm và hiểm độc nhất.

Tuy nhiên, bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở, hiểm trở, dòng sông Đà cũng hiện lên thật thơ mộng, trữ tình. Qua ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân, “dòng sông chảy như một áng tóc trữ tình, những sợi tóc và rễ ẩn trong mây trời Tây Bắc bừng nở tháng hai và cuồn cuộn khói mèo đốt cánh đồng xuân”. Tài hoa và kín đáo như vậy, một hình ảnh đẹp hiện lên giữa núi rừng Tây Bắc hiểm trở. Đặc biệt khi tác giả miêu tả nước sông mới đẹp và thơ mộng biết bao: “Mùa xuân nước sông có màu xanh ngọc bích, nhưng nước sông Đà không có màu xanh của sông Gâm, sông Lô. , nước sông đỏ như da mặt người bị rượu làm bầm, màu đỏ của sự tức giận của một kẻ bất bình mỗi lần nổi giận.” Những ngôn từ mượt mà, đẹp đẽ đã tạo nên vẻ đẹp hiếm có của một dòng sông tưởng như chỉ có sự giận dữ và hung dữ.

Con sông Đà có những lúc mênh mang buồn đến lạ. “Bờ sông hoang vu như bờ tiền sử. Bờ sông như một câu chuyện cổ tích xưa. Thật là một vẻ đẹp dịu dàng, chân thật và mới mẻ.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 12

Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là một tùy bút đặc sắc, là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến vùng sông Đà từ năm 1958 đến năm 1960, được in trong tập Nhật ký sông Đà. Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc in đậm trong hình ảnh người lái đò nghệ sĩ và dòng sông Đà vừa hùng vĩ vừa thơ mộng.

“Tây Bắc? Chỉ có Tây Bắc. Khi trái tim tôi hóa thành những con tàu Khi Tổ quốc bốn phía hát vang Tâm hồn tôi là Tây Bắc, không còn nữa”. (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Trong những ngày cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi “hồn Tây Bắc” xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc, đã có biết bao nhà văn, nhà thơ thực hiện công cuộc lột xác để đến với chặng đường mới của cuộc sống. mạng. Một trong những văn nghệ sĩ yêu nước đó chính là Nguyễn Tuân – cây độc của văn học Việt Nam, người đã đem đến cho đời những bông hoa thơm ngát. Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút Người lái đò sông Đà – tác phẩm thể hiện rõ nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.

Đến với nghệ thuật, với Nguyễn Tuân, là đến với khám phá và sáng tạo, bởi “nhà văn là người làm lại thế giới”. Nguyễn Tuân sợ mình hôm nay giống mình hôm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Vì vậy, ông lấy “chủ nghĩa” của sự dịch chuyển “làm chủ đề cho tác phẩm của mình, làm mục đích của cuộc đời mình. Cuộc sống là để đi, để học hỏi những điều mới.

Trước cách mạng, một mình với chiếc va li, Nguyễn Tuân đã bôn ba khắp mọi miền đất nước nhưng với tâm trạng “thiếu quê hương”, bất mãn với cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại. Sau cách mạng, ông cũng đi ngược xuôi nhiều nơi, nhưng với tâm hồn của một người yêu quê hương, muốn góp phần xây dựng Tổ quốc. Bản thân nhà văn đã từng nhắc đến Tây Bắc để “đi tìm cái vàng thứ mười của sắc màu sông núi Tây Bắc và đặc biệt là cái vàng thứ mười có sẵn trong tâm trí của tất cả những người hôm nay đang thiết tha gắn bó với Tây Bắc. xây dựng Tây Bắc tươi sáng, tươi vui và bền vững hơn”. Với tình yêu quê hương sâu nặng và bầu nhiệt huyết sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã vận dụng sự khéo léo, tinh tế trong ngôn ngữ phong phú của mình để viết nên những đoá hoa thơm về con người và thiên nhiên sông núi. Cái này…

Tác giả thường tìm kiếm cảm giác mạnh cho các giác quan. Vì vậy, văn của ông thường mang âm điệu của mưa bão. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng mất đi nét dịu dàng và thơ mộng. Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên vừa hung bạo, vừa trữ tình. Nó có bộ óc xảo quyệt của kẻ thù số một, có thể lấy đi mạng sống của bất cứ ai vô tình rơi vào “thạch chiến”…” Nước sông Đà nghe như bị đun sôi cả trăm độ… Đá ở đây có từ ngàn năm chúng vẫn mai phục cả dưới lòng sông” hễ thấy thuyền vào là chúng “chồm lên vồ lấy”… Nhưng sự hung dữ dữ dội ấy vẫn không làm mất đi nét trữ tình trong sông Đà. Miêu tả dòng sông ở những đoạn xuôi dòng, ngòi bút của Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, uyển chuyển và nên thơ. “Dòng sông Đà chảy dài như áng tóc trữ tình, đầu ấp chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc hoa ban nở, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt ruộng xuân”…

Trên dòng sông ấy, người lái đò xuất hiện, dữ dằn và phi thường. Trong cuộc chiến “một mất, một còn” với thác nước, tác giả đã cho ta thấy tài năng và lòng dũng cảm tuyệt vời của người lái xe. Người lái đò sông Đà là hiện thân của tác giả, người chỉ thích dấn thân vào những cuộc chiến nguy hiểm với thác dữ chứ không thích chèo thuyền trên dòng sông phẳng lặng…

Giọng văn của Nguyễn Tuân rất tự nhiên, phóng khoáng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của cùng một sự vật. Sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, vừa là “kẻ thù vừa là “cố nhân”, dưới ngòi bút của tác giả, dòng sông không chết mà chuyển động mạnh mẽ, sôi động với những từ gợi hình ảnh, tác động mạnh vào giác quan người đọc. , hiện lên sinh động, rõ ràng, sắc sảo… Với Nguyễn Tuân, “đã là văn thì trước hết phải là văn”, văn phải đẹp, phải trau chuốt, cái đẹp ấy đã chi phối cái nhìn của tác giả đối với toàn bộ tác phẩm. , qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, đều được khai thác bằng thủ pháp nghệ thuật và tài năng nghệ sĩ.

Vẻ đẹp của sông Đà là một công trình sáng tạo của thiên nhiên. Nó vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp về hình thức và màu sắc. Mái tóc trữ tình của người thiếu nữ ấy là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn. Nước sông Đà cũng vậy. “Suối nguồn xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sông Đà đỏ như da mặt người thâm tím vì uống rượu”. Dòng sông ấy đối với tác giả không chỉ là một cảnh thiên nhiên tươi đẹp, nó rất gợi cảm. Nó gây nhớ nhung cho những ai đã từng gặp rồi lại ra đi. Gặp lại sông Đà, tác giả cảm thấy tâm hồn mình vui như gặp lại bạn cũ. “Ôi nhìn dòng sông vui như thấy nắng tan sau cơn mưa to, vui như nối lại giấc mộng đã đứt”.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 13

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một cây bút có vai trò lớn trong nền văn học Việt Nam hiện đại, một nghệ sĩ có quan niệm thẩm mỹ khác người và suốt đời đi tìm cái đẹp. Một trong những bài tùy bút xuất sắc của ông là Người lái đò sông Đà, in trong tập Sông Đà (1960) trong chuyến đi thực tế vùng Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. Tác phẩm cho ta thấy một Nguyễn Tuân với cái nhìn mới, khát khao hòa nhập vào thiên nhiên, thể hiện tình yêu đất nước, cuộc sống. Nguyễn Tuân muốn thông qua hình ảnh con sông Đà dữ dội, hung bạo nhưng trữ tình, thơ mộng, người lái đò chất phác, giản dị nhưng tài hoa để ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người vùng Tây Bắc Tổ quốc. Đoạn thơ còn chứa đựng đầy đủ phong cách thơ tài hoa, uyên bác độc đáo của Nguyễn Tuân.

Hai hình ảnh chủ đạo xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh sông Đà và hình ảnh người lái đò. Một bên là thiên nhiên, một bên là con người, tưởng chừng không hợp nhưng lại tạo nên vẻ đẹp không ngờ. Trước hết, hình ảnh con sông Đà, không phải là một vật vô tri vô giác, mà là một dòng sông rất có hồn, rất nhân cách, được Nguyễn Tuân miêu tả như một nhân vật với hai tính cách trái ngược nhau, vừa hung bạo vừa hung dữ. vừa trữ tình vừa nên thơ

Nhưng biểu tượng cho sức mạnh và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc chính là sự dữ dội, hung dữ ấy. Đá dựng vô cùng hiểm trở, đá làm vách, lòng sông như yết hầu khiến mặt sông vừa hẹp, vừa tối và rất lạnh chỉ vì nắng đúng buổi trưa. Cả một trời đá, hòn nào trông cũng chênh vênh, nhăn nheo, méo mó. Những tảng đá mai phục dưới lòng sông hàng nghìn năm được nhân hóa, đắp nổi dáng uy nghi, hùng vĩ, vươn mình lên, ngoạm lấy thuyền,… khung cảnh choáng ngợp, tráng lệ, chật hẹp khiến ta cảm thấy sợ hãi, lạnh lẽo và nhỏ bé giữa thiên nhiên bất chấp mùa hè oi bức, nóng bức.

Sóng dữ, nước cuồn cuộn. Quãng đường của ghềnh Hát Loong, nước đóng băng, đá, sóng, sóng… trải dài hàng dặm và cuộn trào… như thể những kẻ đòi nợ đang đi ngang qua quãng đường ấy. Điệp cấu trúc nối tiếp kết hợp động từ mạnh “xô” được lặp lại nhiều lần như nhấn mạnh sức mạnh của thiên nhiên thật khủng khiếp và đầy lạnh lùng. Những cái hút khủng khiếp giống như một cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu… Nước ở đây thở phì phò như một miệng cống nghẹt sẵn sàng nhấn chìm và đập tan bất kỳ con thuyền nào lọt vào. Nghệ thuật nhân hóa và so sánh khiến cho hình ảnh sinh động, hấp dẫn hơn, diễn tả cảnh những chiếc thuyền bị hút xuống, bị hút vào những cây chuối úp ngược, bị tra tấn hành hạ, nhưng đến mười phút sau thì biến mất. nhìn thấy một xác chết cháy ở hạ lưu sông.

Dòng thác như nổi giận mà gầm lên dữ dội. Tác giả miêu tả dòng sông bằng những từ ngữ gợi cảm, tiếng thác từ xa nghe như van xin, than thở, rồi giọng khiêu khích, giễu cợt. Âm thanh đến gần được ví như tiếng trâu gầm… rùng rợn và khủng khiếp. Sông Đà đặc biệt hung bạo khi các yếu tố trên kết hợp với nhau tạo nên những lũy ​​đá, hệ thống phòng thủ với nhiều cửa ải tử thần, nhiều thủ đoạn chiến đấu khác nhau, nhiều trận đánh nguy hiểm, được ví như một con thủy quái khổng lồ, nham hiểm với dáng vẻ và tâm địa kẻ thù số một của con người. .

Sông Đà chỉ thực sự thơ mộng khi chảy qua chợ Bờ và để xa những ngọn thác phía thượng nguồn. Dài như một sợi tóc… ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc…, dường như dòng chảy của sông Đà như mái tóc của người thiếu nữ, người con gái Tây Bắc dưới trời Tây Bắc. Màu nước sông Đà thay đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng. Mùa xuân nước xanh màu ngọc bích, cứ đến mùa thu thì lúa chín đỏ như mặt người bị rượu làm cho thâm… Sông Đà có một vẻ đẹp rất gợi cảm, thân mật như người tình, khi gặp lại sông như người tình. gặp lại cố nhân lòng bồi hồi, xa xăm mà hoài niệm và dòng sông gợi lên vẻ đẹp của một thời thơ Đường nhẹ bẫng bởi màu nắng tháng ba… Cảnh vật hai bên bờ vừa hoang sơ, vừa hoang sơ. cổ tích trong những câu chuyện về hoàng tử, công chúa của thiếu nhi nhưng cũng đậm đà và tràn đầy sức sống, tự do tự tại của một chế độ mới. Qua hình tượng con sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện tình yêu tha thiết đối với thiên nhiên đất nước. Đối với anh, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật không gì so sánh được. Cảm nhận và miêu tả sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện cách nhìn khác của mình: hóm hỉnh, uyên bác và tao nhã. Sông Đà là một nền đầy đặn, đẹp đẽ nhưng không làm lu mờ mà còn làm nổi bật vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.

Nguyễn Tuân đã tạo nên một đoạn văn tràn đầy khí thế chiến trận, hình dung cuộc chiến khốc liệt của người lái đò với lũ thủy quái sông Đà, qua đó làm nổi bật hình ảnh người lái đò, một người lao công. vẻ đẹp khác thường mới. Ông như một vị tướng chỉ huy dày dạn kinh nghiệm: biết mai phục đá, bố trí trận đồ đá… Ông nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, thuộc quy luật mai phục của chúng nên linh hoạt ứng biến. chiến thuật. lần lượt vượt qua từng tuyến địch. Người lái đò là người từng trải, từng trải, am hiểu sâu rộng cách luồn lách của sông Đà và cũng dũng cảm đương đầu với cuộc chiến không cân sức với sông Đà. Sông Đà là một thiên nhiên vĩ đại, hung dữ và hiểm độc với sức mạnh được nâng lên tầm thần thánh, với sóng reo tranh thuyền, với đá ngàn năm phục kích, bày thành đá trên sông, thác ầm ầm, reo vui như tiếp viện cho nó, thì sóng dữ như muốn bộ đội liều mạng giáng những đòn chí mạng… Người lái đò chỉ là một con người bé nhỏ, làm gì có phép màu, vũ khí chỉ là một mái chèo thô sơ trên con đò đơn độc. Rút lui đầy độc địa nhưng vẫn sẵn sàng đối mặt với dòng thác dữ, chinh phục mọi cửa ải sinh tử, vượt qua trận thủy chiến khốc liệt với đá tảng trôi nổi và những công trình phòng thủ nguy hiểm. để chinh phục thiên nhiên. Hình ảnh người lái đò lúc này là một người lao động dũng cảm.

Người nghệ sĩ tài hoa là hình ảnh người lái đò được thể hiện tiếp theo. Để vượt qua dòng thác, tâm phải thật tĩnh, chỉ cần một chút thiếu liêm chính hay sơ suất là phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Tuy nhiên, người lái đò đối mặt với thác ghềnh dữ dội bằng sự tự tin và thoải mái của người nghệ sĩ; vượt thác một cách bình tĩnh và khéo léo. Với chiếc “tay lái hoa”, ông đã điều khiển con thuyền vượt qua ba vi khuẩn của sông Đà. Sông Đà trong kiến ​​tạo vi thạch đầu tiên có 5 cửa trận, trong đó có 4 cửa tử và chỉ có 1 cửa sinh nằm chênh vênh về phía tả ngạn. Người đá hất hàm, người thách thức thách thức, thác nước cổ vũ như tiếp thêm sức mạnh cho đá, nước tràn vào làm gãy cán trà, sóng băng rời đi, thúc gối vào mạn thuyền, đánh thuyền. những cú đánh ác ý vào người lái đò. Người lái đò bị thương nhưng vẫn cố gắng chịu đựng những đau đớn về thể xác, chân vẫn kẹp chặt bánh lái, khuôn mặt nhăn nhó nhưng giọng ra lệnh vẫn ngắn gọn, tỉnh táo để đưa đò ra khỏi vòng nguy hiểm. Ở vi thạch trận thứ hai, cửa tử lại tăng lên, nhưng cửa sinh vẫn chỉ có một, nhưng nằm ở bờ phải. Những thác nước hy sinh như một con báo để nuốt chửng con thuyền. Lão chủ động đổi chiến thuật: túm bờm sóng… cưỡi thác sông Đà như cưỡi hổ. Những tảng đá lao ra, định kéo thuyền vào nhóm tử thần, nhưng anh nhớ mặt chúng, chỗ thì bơi, chỗ thì ép lao, chỗ thì chẻ đôi mở đường. Những viên đá chỉ còn biết thất vọng, mặt tái mét nhìn ông lão đưa thuyền vào bờ an toàn. Trong kiến ​​tạo vi thạch thứ ba, sông Đà bên phải và bên trái là dòng chết, giữa sông là dòng sống duy nhất, có quân phòng thủ. Anh cương quyết bẻ lái không chút phân tâm, quyết giữ vững tinh thần, như hòa với con thuyền làm một, lao thẳng đến cửa sinh an toàn, vượt qua mọi vòng vây. Đó là tất cả. Thiên nhiên cuối cùng cũng không ngăn được bước tiến của con người, sự dữ dội của dòng sông cũng không ngăn được chiếc xuồng và ông lão. Sự bền bỉ, lòng quyết tâm và lòng dũng cảm là yếu tố quyết định thắng lợi và đặc biệt là kinh nghiệm vùng sông nước của người lái đò.

Sau khi đọ sức với dòng sông, vượt qua 3 loại vi khuẩn khó nhằn và nguy hiểm, ông ung dung đốt lửa trong hang, nướng cơm ống tre và say sưa kể chuyện cá không nói nên lời. Hãy nói thêm một chút về thác nước. Dường như chuyện vượt thác không khơi dậy trong anh một thứ gọi là sợ hãi hay lo lắng, anh vẫn mặc kệ mọi người mà sống lạc quan, thoải mái, giản dị và lãng mạn. Nguyễn Tuân đã tìm thấy hình ảnh một con người mới, một con người đáng ngợi ca và kính trọng, không phải là anh hùng trận mạc mà chỉ là một con người lao động bình thường – con người Tây Bắc.

Vừa là người lái đò vừa là thác nước, Nguyễn Tuân viết như một bộ phim hành động điện ảnh cận cảnh. Có hồi hộp, có kịch tính, có phấn khích, có cháy nổ, có âm thanh đặc sắc, hành động đẹp mắt. Để viết được như vậy, người ta phải có một trí tưởng tượng vô cùng phong phú, một góc nhìn khác, một cảm nhận đa chiều… đủ thấy Nguyễn Tuân là người có tầm hiểu biết rộng lớn, tư duy độc đáo và nghệ sĩ như thế nào. tài năng như thế nào. Qua đây, nhà văn cũng muốn thể hiện quan niệm người anh hùng không chỉ hiện diện trong chiến đấu mà còn hiện diện trong cuộc sống lao động hàng ngày, người lái đò chẳng hạn.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 14

Người lái đò sông Đà là một trong những bài tùy bút hay nhất trong bài tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân, đây cũng là bài đánh dấu bước chuyển biến trong tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Tuân so với đoạn trước. mạng. Ở Người lái đò sông Đà không chỉ có hình ảnh người lao động dũng cảm, kiên cường mà còn là thiên nhiên tươi đẹp, có hai vẻ đẹp đối lập nhau đó là vẻ đẹp hung bạo và vẻ đẹp trữ tình. Hai vẻ đẹp ấy hòa quyện, tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh cho dòng sông.

Trước hết về xuất thân của dòng sông, theo Nguyễn Tuân, dòng sông được sinh ra ở huyện Cảnh Đông – Vân Nam – Trung Quốc, sau đó nhập tịch Việt Nam và có thể lớn lên mãi mãi. Những từ như sinh thành, quốc tịch,… đã biến dòng chảy của con sông thành dòng chảy của cuộc đời, số phận và cơ thể sống.

Trước hết, dòng sông mang vẻ đẹp hung bạo và dữ dội, bởi trước khi nhập tịch Việt Nam, nó đã chảy qua một vùng núi khác của Trung Quốc. Dáng vẻ của dòng sông thật dữ dội: những tảng đá bên bờ sông dựng đứng, “vách thành chắn ngang sông Đà như một cái họng”. Hình ảnh so sánh khác lạ đã tái hiện cảnh sông bị thu hẹp đột ngột, kết hợp với thủ pháp miêu tả tỉ mỉ: “buổi trưa chỉ có nắng trên mặt sông” cho thấy cảnh hùng vĩ. hùng vĩ, âm u, chế ngự. Cùng với trường liên tưởng độc đáo, lạ lùng, Nguyễn Tuân đã gợi nên cái lạnh lẽo toát ra từ cảnh vật. Thông thường, để tạo ra cái lạnh, người ta thường nghĩ đến mùa đông, còn Nguyễn Tuân thì nghĩ: “Ngồi trong khoang thuyền ngang qua ấy, đang là mùa hè mà ta thấy lạnh, có cảm giác như đang đứng trong ngõ hè mà. nhìn lên cửa sổ nào đó trên tầng của ngôi nhà vừa tắt đèn.” Điều này thấm sâu vào da, khiến người ta run lên vì sợ hãi.

Sự hung dữ, hiểm trở của dòng sông còn được nhà văn định hình trong đoạn ghềnh Hát Loong. Với vốn kiến ​​thức địa lý sâu rộng và vốn từ phong phú, Nguyễn Tuân đã tái hiện thành công vẻ đẹp hung bạo của dòng sông: “Dáng như mặt ghềnh Hát Loong, băng đá dài hàng cây số, sóng xô, sóng vỗ, sóng vỗ, quanh năm lăn lộn như đòi nợ bất cứ người lái đò Sông Đà nào bắt gặp ở đó, lần này nếu sơ ý bẻ lái rất dễ bị lật bụng thuyền”. Câu văn dài, chia thành nhiều đoạn ngắn, có sự trùng lặp về cấu trúc tạo nên nhịp nhanh, mạnh, gấp gáp diễn tả phản ứng dây chuyền giữa sóng, gió, nước và đá, đầy nguy hiểm.

Sự nguy hiểm còn thể hiện ở các cửa hút nước trên sông. Âm thanh thật khủng khiếp, “thở dài như đổ dầu sôi vào”, âm thanh vừa dữ dội vừa ghê rợn, dường như phát ra từ cổ họng của một con quái vật. Về hình ảnh, tác giả miêu tả “đàn quạ bay lượn trên cửa hút nước” gợi sự xui xẻo, chết chóc. Tài hoa nhất là khi Nguyễn Tuân đẩy trường nghĩ đến cái giới hạn xa nhất, khi tác giả vẽ cảnh người quay phim táo tợn ngồi trên chiếc thuyền thúng để thả mình vào những giác hút ấy: “ngồi thuyền” vòng thúng và rồi cho thuyền, mình và máy quay xuống đáy hút sông Đà…”.

Sau khi miêu tả con người phiêu bạt hiểm ác, Nguyễn Tuân tiếp tục đi sâu vào lòng sông. Con sông Đà có dã tâm thâm độc, được Nguyễn Tuân thể hiện rõ nhất ở cách chúng trưng bày những con vi trùng vi trùng. Ở đây, Nguyễn Tuân đã khai thác triệt để hiệu quả của biện pháp nhân hóa, để nhận ra những viên đá kia mang tính cách, khuôn mặt của một con người. Theo miêu tả của Nguyễn Tuân, mỗi phiến đá đều uốn éo, méo mó và dữ dằn, chúng kết lại thành một thiên đường, một chiếc võng trên sông. Trước khi vào trận, chiến trường đã được bố trí, chúng được chia thành ba trận vi thạch liên tiếp chứa đựng vô số cửa tử, nhưng mỗi trận trận vi thạch chỉ có một cửa sinh, cửa sinh này đã thay đổi. không thể đoán trước. Qua đó cho thấy sự tinh ranh, xảo quyệt của dòng sông đối với người lái đò. Với vốn kiến ​​thức phong phú, uyên bác trên nhiều lĩnh vực và ngôn ngữ giàu hình tượng, Nguyễn Tuân đã miêu tả đầy đủ sự nguy hiểm, hung bạo của non sông, không chỉ ở vẻ bề ngoài mà cả trong lòng đất. , tính cách.

Thượng nguồn sông Đà mang vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo thì ở hạ lưu sông Đà lại có một vẻ đẹp khác dường như đối lập hoàn toàn với vẻ đẹp thơ mộng trữ tình. Và ở khía cạnh này, Nguyễn Tuân coi sông Đà là món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho Tây Bắc.

Để cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp của sông Đà, tác giả đã nhìn nó dưới nhiều góc độ, nhiều thời điểm khác nhau. Nhìn từ trên cao, sông Đà như một sợi dây thừng ngoằn ngoèo, rất mềm mại và uyển chuyển. Sông Đà được ví “chảy như áng tóc trữ tình”, dòng sông hiện lên vô cùng đẹp, tựa như một thiếu nữ xinh đẹp. Đặc biệt, vẻ đẹp của dòng sông càng nổi bật hơn khi xuất hiện sắc trắng tinh khôi của hoa ban, sắc đỏ của hoa gạo và làn khói mờ ảo khiến dòng sông như được chảy ra từ chốn bồng lai tiên cảnh. . Màu sắc của dòng sông cũng thay đổi theo mùa, nước suối có màu xanh ngọc bích, nước chảy êm đềm. Mùa thu chín đỏ như người say bữa cơm, hình ảnh so sánh thật đặc sắc cho thấy dòng chảy chậm chạp nặng trĩu phù sa của dòng sông.

Đặc biệt vẻ đẹp trữ tình của dòng sông được thể hiện rõ nét qua cảnh hai bên bờ sông. Tác giả cố ý đẩy dòng sông vào cõi thần tiên, để có cảm giác “từ thời Lý, Trần, Lê nó đã êm đềm như thế”. Để miêu tả sự tĩnh lặng của dòng sông, tác giả đã sử dụng lối văn tả động, chỉ riêng tiếng cá dầm xanh biếc cũng đủ làm đàn hươu ngơ ngác.

Đến với hạ lưu sông Đà nó trở nên dịu dàng hơn được Nguyễn Tuân miêu tả qua câu văn thật tinh tế: “Thuyền tôi trôi sông Đà”. Tuy không miêu tả trực tiếp nhưng giọng điệu của câu văn toát lên sự nhẹ nhàng, êm ả và duyên dáng của dòng sông.

Tác giả đi sâu vào miêu tả cảnh vật ven sông để làm nổi bật chất thơ mộng, trữ tình của cảnh vật. Anh không tham lam chi tiết mà chỉ chọn một số chi tiết rất đẹp, đặc sắc làm toát lên hết cái thần của bức tranh, nào là bãi ngô mới nhú, đồi cỏ đang trổ hoa… Tất cả các chi tiết đều nhẹ nhàng, thanh tao. nhưng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Bằng ngòi bút tài hoa và vốn sống phong phú, Nguyễn Tuân đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên sông nước sông Đà vô cùng đẹp đẽ. Sông Đà hiện lên qua trang văn của Nguyễn Tuân không chỉ là thiên nhiên thuần túy mà còn là một sản phẩm nghệ thuật vô giá. Qua đây, tác giả cũng kín đáo bày tỏ lòng yêu nước thiết tha, thiết tha, tự hào về thiên nhiên quê hương.

Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân lớp 12 hay nhất
Phân tích học sinh lớp 12 hay nhất của Nguyễn Tuân

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 15

Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, trăn trở về cái đẹp. Nếu trước cách mạng Người thoát li hiện thực và tìm cái đẹp của một thời đại vẻ vang, thì sau cách mạng vẫn duy trì con đường ấy, nhưng Người tìm cái đẹp ở cuộc đời này, ở những người lao động rất đỗi bình thường. kỳ quặc. Người lái đò sông Đà được trích từ tùy bút Sông Đà là sự miêu tả chân thực vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc và vẻ đẹp hào hùng của con người trong lao động.

Bài tùy bút Sông Đà nhìn chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân lên Tây Bắc trong những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ miền Bắc sau giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi của Đảng bộ miền Bắc, phong trào xung phong đang diễn ra đến các vùng sâu, vùng xa của Tổ quốc để khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh.

Như chúng ta đã biết, mỗi mệnh đề xuất hiện thường tập trung tư tưởng của tác phẩm, là chìa khóa mở cánh cửa tác phẩm, bộc lộ tư tưởng, chủ đề, cảm hứng chủ đạo. Người lái đò sông Đà sử dụng hai giới từ: Giới từ thứ nhất: “Đẹp quá, tiếng hát trên sông”, đây là câu thơ nổi tiếng của nhà thơ cách mạng Ba Lan với cấu trúc cảm thán. Đoạn thơ có thể là tiếng ca của những người chèo thuyền, kéo thuyền vượt thác với một tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu lao động, hoặc cũng có thể là sự lắng lòng của chính tác giả trước khả năng làm chủ thiên nhiên của mình. con người trong cuộc sống mới. Ở khổ thơ thứ hai, Nguyễn Tuân mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích: “Ta ở trong nước Đông Tàu/ Đà giang độc bắc lưu”. Câu thơ đã hé lộ cho người đọc thấy mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, chỉ có sông Đà chảy về hướng bắc. Đoạn thơ đã khẳng định nét độc đáo của Đà giang, đồng thời bộc lộ cá tính nghệ thuật của Nguyễn Tuân – nhà văn của những cảnh đẹp, tình cảm mãnh liệt.

Trước hết, hình ảnh sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả bằng nhiều nét vừa mang vẻ đẹp hung bạo nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình. Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông được Nguyễn Tuân thể hiện trong cảnh bờ sông dựng bức tường thành. Khi đó, “mặt sông kia chỉ có lúc trưa nắng lên” vừa gợi độ cao, vừa gợi tả cái lạnh lẽo, âm u của dòng sông. Không chỉ vậy, “bức tường thành chắn ngang lòng sông như một cái họng” diễn tả sự nhỏ hẹp của dòng chảy gợi vận tốc lớn nhất, nhất là vào mùa lũ với biết bao nguy hiểm rình rập. Bằng một trường liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân tiếp tục khắc họa đậm nét hơn những vách đá lạnh lẽo, tối tăm, bên dòng sông nhỏ và hẹp: “Ngồi thuyền qua quãng ấy, hè mà cũng se se lạnh, lòng tôi bâng khuâng” Tôi đang đứng trong một con hẻm và nhìn lên cửa sổ nào đó trên tầng nào đó vừa tắt đèn.”

Không chỉ vậy, tính hung bạo còn được thể hiện trong “Ghập ghềnh Hát Lẻo”, ở đoạn văn này, Nguyễn Tuân đã nhân cách hóa dòng sông như một con người, đó là một tên đòi nợ, với bộ mặt hung dữ, tàn ác. hung bạo. Những câu văn có nhịp điệu nhanh, điệp ngữ, cấu trúc được áp dụng liên tiếp (băng, băng, sóng, sóng) kết hợp với các hiệp tiết liên tiếp tạo nên âm hưởng dồn dập, nhịp nhàng. Khẩn trương, gấp gáp như xô đẩy, sức mạnh tổng hợp của sóng, gió và đá khiến cả ghềnh sông sôi sục, cuộn trào dữ dội, tạo nên mối đe dọa thực sự cho bất kỳ người lái đò nào”. lật úp thuyền.”

Sự tàn bạo còn thể hiện ở những chiếc ghe ngo độc ác giăng ngang sông, như muốn lấy mạng người dân bất cứ lúc nào. Để tái hiện lại sự rùng rợn của những cái hút nước, Nguyễn Tuân đã lia máy theo nhiều chiều khác nhau, giúp người đọc có cái nhìn bao quát, đầy đủ. Nhìn từ trên cao xuống, nước sông “như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cho một cây cầu”; Từ lòng sông nhìn lên, “thành giếng được xây hoàn toàn bằng nước sông xanh với lớp thủy tinh đúc dày, pha lê xanh như sắp vỡ…”. Và để giúp người đọc cảm nhận rõ nét hơn, tác giả cũng đưa ra những vị trí cảm nhận khác nhau, đối với người quay phim thì giống như “ngồi trên chiếc thuyền thúng tròn và thả cả thuyền cùng máy quay xuống đáy hút của sông Đà… ” ; với người xem phim, họ thấy mình “thấy mình đang ngồi mà gân guốc ngồi ôm ghế như nắm mép lá rừng vừa tạt vào cốc nước pha lê khổng lồ vừa được rút lên thanh phèn chua.. .. Bằng những trải nghiệm và góc nhìn phong phú, Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm nhận đầy đủ về sự nguy hiểm tột độ của sông Đà mà ở đây là cửa lấy nước.

Cuối cùng, sự dữ dội của sông Đà được miêu tả trong các cấu trúc vi thạch khác nhau. Với vi khuẩn thách đấu trận đầu là “cả một chân trời đá”, “mặt đá nào cũng chênh vênh, hòn đảo nào cũng nhăn nheo, méo mó hơn cả mặt nước nơi đây”. Đá cũng bày binh bố trận, như thể cố tình đánh đắm thuyền. Mảng vi thạch thứ hai tiếp tục tăng thử thách, thêm cái chết để đánh lừa con thuyền và chỉ có một cửa duy nhất để sinh ra. Cửa sinh đó cũng không kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng đứng ở cửa”, kết hợp với tảng đá là thác nước như báo như hổ sắp vồ tới nhấn con thuyền xuống đáy sông. Trong sự hình thành vi thạch cuối cùng, có rất ít cửa ra vào, “phải và trái đều chết”, chỉ có một dòng suối hồi sinh “ở giữa những người bảo vệ thác nước”. Mọi mầm mống, mảng đá đều vô cùng hiểm độc, với mục đích duy nhất là làm cho thuyền mất sức mà chết.

Bên cạnh vẻ đẹp hung bạo, sông Đà hiện lên một vẻ đẹp rất khác, đối lập hoàn toàn, đó là vẻ đẹp trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của dòng sông như “sợi dây ngoằn ngoèo dưới chân”, đặc biệt như mái tóc của người thiếu nữ. tình yêu, tóc, tóc, rễ, ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, nở hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt ruộng xuân.” Dòng sông như một thiếu nữ, với mái tóc dài bồng bềnh, bồng bềnh , duyên dáng, uyển chuyển đến không ngờ. Vẻ đẹp của dòng sông hài hoà với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng tô điểm thêm vẻ đẹp mĩ miều. Mùa xuân, nước Sông Đà trong xanh, “xanh ngọc bích”, sáng, trong, lấp lánh; đến mùa thu, nước Sông Đà “đỏ dần như da mặt người bị rượi rượu, màu đỏ của cơn giận trong lòng người bất bình mỗi khi trở về lại nổi giận”. và đàn bướm trên sông Đà”. Nhà văn đã cảm nhận được cái chất “ấm áp, êm đềm” quen thuộc khi gặp lại nhau sau một thời gian “lâu ngày lên rừng xuống núi”.

Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật trong hình tượng sông Đà, mà để tô điểm và hoàn chỉnh vẻ đẹp của sông Đà thì cần có sự xuất hiện của một con người, và đẹp như vậy là bức chân dung của người lái đò sông Đà. Người lái đò được vẽ bởi Nguyễn Tuân. thể hiện sự khéo léo, trong sáng. Người lái đò không có tên cụ thể mà chỉ quen gọi là người lái đò Lai Châu. Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, chân dung của ông luôn được tái hiện trong mối liên hệ với dòng sông Đà. Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật cuộc chiến không cân sức: một bên là thiên nhiên hung bạo, hung dữ, sức mạnh vô song với sóng biển, với thạch anh nham hiểm, một bên là con người nhỏ bé trên con thuyền. con én chỉ có một mình và vũ khí trong tay chỉ là mái chèo. Nhưng dù sông Đà có gian xảo, xảo quyệt đến đâu thì người lái đò vẫn kiên cường bám lấy nó “hai tay giữ cho mái chèo không bị sóng trận hất tung và phóng thẳng vào mình”. Đặc biệt trong lần thứ ba vượt qua trận địa vi thạch, người lái đò đã bộc lộ rõ ​​tài năng của mình. Ông cứ “nhảy thuyền thẳng, phá cửa giữa… vút qua cửa đá”, “nhảy, vút, cửa ngoài, cửa trong, cửa trong nữa, thuyền như mũi tên tre lao vút đi. xuyên qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự chủ, bẻ lái lướt được”… rồi đắc thắng. trước hết xuất phát từ sự ngoan cường, dũng cảm, quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc đời, đây còn là chiến thắng của trí tuệ con người và sự am hiểu tường tận đặc điểm của sông Đà.

Đặc biệt, cũng như những nhân vật khác của mình, người lái đò cũng được Nguyễn Tuân khắc họa ở vẻ đẹp tài hoa và nghệ thuật. Tài năng là khi con người đạt đến trình độ điêu luyện, tinh thông trong công việc, đến mức có khả năng sáng tạo, có thể vươn tới tự do. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân đã tập trung ca ngợi hình ảnh người đánh xe băng băng trên thác sông Đà một cách ung dung, điềm tĩnh, tự tại trong cuộc chiến đấu cam go nhưng cũng rất anh dũng. Và phong thái nghệ sĩ của người lái đò thể hiện qua cách anh nhìn tác phẩm của mình, bình thản đến lạ lùng. Khi dòng sông ngoằn ngoèo uốn mình về cuối thác cũng là lúc “sóng và thác tan trong thương nhớ”. Các nhà thuyền ngừng chèo, đốt lửa nướng ống cơm, bàn tán về cá Anh Vũ, cá chùm xanh, “về những hầm cá mùa khô kêu ầm ĩ như mìn nổ, cá tràn cả vào ruộng”.

Bằng ngòi bút vô cùng tài hoa và tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang văn đẹp cả về hình thức lẫn tư tưởng. Tác phẩm được tạo nên từ tình yêu quê hương sâu sắc, tha thiết. Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ của quê hương mà còn khẳng định sự cao cả, sức mạnh phi thường của những con người bình dị trong hành trình chinh phục thiên nhiên.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 16

Nguyễn Tuân là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về vẻ đẹp của con người, của cuộc sống với những tâm tư, tình cảm gắn bó với quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý bởi phong cách nghệ thuật rất riêng, rất độc đáo. “Người lái đò Sông Đà” là một bài tùy bút, đồng thời cũng là một bài thơ bằng văn xuôi thể hiện rõ nhất những nét tiêu biểu của phong cách đó.

“Người lái đò sông Đà” trước hết là tác phẩm viết về con người và dòng sông. Nhưng dưới ngòi bút tâm huyết và tài hoa của ông, mọi cảnh sắc thiên nhiên đều trở thành tác phẩm nghệ thuật, con người trở thành nghệ sĩ tài hoa của nó.

Khả năng quan sát, miêu tả tỉ mỉ cùng với kho từ ngữ vô cùng phong phú, chính xác của Nguyễn Tuân đã xây dựng nên những bức tranh hết sức sinh động, những hình ảnh tráng lệ giàu sức hấp dẫn về cảnh sắc thiên nhiên. cây bút rất độc đáo này.

Người lái đò trên sông Đà mà Nguyễn Tuân nhắc đến trong tác phẩm là một ông lão đã ngoài 70, đã dành phần lớn cuộc đời làm nghề lái đò dọc sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên sông Đà xuống dốc, đi ngược trăm lần rồi bẻ lái sáu mươi lần…” trong suốt hơn mười năm làm nghề nguy hiểm, gian khổ. Cái này.

Đây là người từng trải, hiểu biết, rất thạo chèo thuyền, đã đạt đến trình độ “nhắm mắt nhớ tỉ mỉ như đinh đóng cột mọi dòng chảy mọi biển cả. thác nguy hiểm”. Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với người đàn ông này: “Sông Đà với người lái đò ấy như một bản anh hùng ca hùng tráng mà ông thuộc lòng cả dấu chấm than, dấu câu và cả những từ ngữ. ngắt dòng”. Đó là một so sánh thú vị vừa “rất văn” mà cũng “rất Nguyễn Tuân”.

Hình ảnh người lái đò với “cái đầu hoa râm ấy đặt trên một thân hình cao và rắn chắc như sừng, mùn” và đôi tay vẫn là cánh tay của một “cậu bé” còn “quá trẻ”, được Nguyễn Tuân gọi đó là “cái vàng mười”. Anh đã đương đầu với những thử thách của sông Đà với sức đá ghê gớm, những cạm bẫy đáng sợ: dòng sông uốn khúc, thấy sóng tung bọt trắng xóa cả một chân trời. Đá ở đây mấy nghìn năm mai phục dưới lòng sông, dường như mỗi lần có thuyền xuất hiện ở quảng trường hiu quạnh mà ồn ào này, mỗi lần thuyền lỡ rẽ sóng là một số hòn đảo rơi xuống. đứng dậy lấy thuyền.”

Một mình một thuyền, anh chiến đấu như một chiến binh: “…hai tay cầm mái chèo khỏi bị sóng chiến quật thẳng vào người. Nước ầm ầm vây lấy tôi, ập vào làm gãy mái chèo, vũ khí trên tay tôi”, và sóng “đánh vào đầu gối và mạn thuyền. Đôi khi họ đặt cả thuyền lên. Nước bám vào thuyền như một đô vật túm lấy eo người lái đò, đòi lộn mình giữa dòng nước giông tố. Có lúc tưởng chừng như người lái đò bị nhấn chìm trong dòng sông… Những cách miêu tả táo bạo và chân thực ấy cho thấy sức mạnh ghê gớm của con thác hung dữ đối với con người, chỉ lóa mắt, lỡ một chút là phải. trả bằng mạng sống của mình.

Nhưng chỉ dũng cảm và táo bạo thôi thì chưa đủ, điều quan trọng hơn là kỹ năng lái con thuyền của người cầm lái phải đạt đến trình độ điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả đã so sánh người lái đò sông Đà với người lái đò lao xuống dốc, tuy rất nguy hiểm nhưng người lái đò cũng có phanh chân, phanh tay, tiến cũng như lùi “chứ như con thuyền lao xuống thác không có phanh”. cùng lắm chỉ lao tới chứ không lao ngược, không va vào lòng dòng thì thuyền sẽ rẽ ngang chứ không hề lùi…” Vẫn bằng biện pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh hết sức táo bạo, tác giả đã miêu tả sông Đà như một biến số, mỗi nơi như có cạm bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có cách ứng phó riêng. Có nơi, nước sông “gào thét như sôi trăm độ, muốn hất tung con thuyền phải đóng vào một nồi nước sôi khổng lồ”. “Nếu nước chảy nhầm là chết ngay”. Lại có những “vòi hút” xoáy sâu như giếng “con nào hút cạn, thuyền ấy trồng chuối”. cây lộn ngược và sau đó nó biến mất”…

Con người sông Đà thật nguy hiểm và gian khổ. Tuy nhiên, “người lái đò cố nén vết thương, chân vẫn bấu chặt vào cần lái…”. Dù khuôn mặt “méo mó” vì những cú đòn hiểm, “nhưng trên con đò chèo, tôi vẫn nghe rõ khẩu lệnh ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm lái”.

Rõ ràng qua cách miêu tả hết sức dữ dội của dòng sông, Nguyễn Tuân nhằm một mục đích lớn lao: ca ngợi lòng quả cảm, tài trí của con người, ca ngợi chiến công vĩ đại của người lái đò, người đã vượt qua bao thác ghềnh, sóng to gió lớn đưa con đò trở về bến bình yên không chỉ một lần mà hàng trăm lần trong suốt 15 năm làm người lái đò qua sông Đà. Cuộc đấu tay đôi giữa con người đã giành chiến thắng; trở về với cuộc sống bình yên: “Thế là hết thác. Dòng sông uốn lượn thành bến cát có hang lạnh (…). Dòng sông êm đềm trở lại. Đêm đó, nhà phà đốt lửa trong hang, nướng ống cơm…”

Cảm hứng lãng mạn đậm đà, trong sáng lan tỏa trong từng câu văn đậm chất hiện thực tạo cho đoạn văn một sức hấp dẫn khó cưỡng lại. Đó là bài ca về lao động, về con người lao động.

Mười mấy năm làm nghề lái đò, dù đã bỏ nghề mấy mươi năm nhưng trên ngực người lái đò vẫn còn một “củ khoai nâu”, đối với Nguyễn Tuân, đó còn là hình ảnh quý giá của người lái đò. một loại huân chương lao động hạng nhất”.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 17

Người lái đò sông Đà là một đoạn trích trong tác phẩm Sông Đà. Đây là kết quả chuyến đi thực tế của tác giả lên Tây Bắc năm 1958. Ông đã sống cùng bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân làm đường và đồng bào các dân tộc Tây Bắc từ Lai Châu đến Sơn La. bước vào trang sách với một niềm vui sống bao trùm lên tất cả, xen lẫn những cảm xúc tuyệt vời về đất nước và con người cũng như những cảm xúc. trữ tình trước vẻ đẹp lạ và hấp dẫn.

Người lái đò sông Đà là một ví dụ điển hình. Lấy người lái đò làm nhân vật chính của câu chuyện kể về con người sông Đà nhưng thực chất đó là sự cảm nhận, thính giác, quan sát, nghiền ngẫm và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Vậy thử mượn lời ông lái đò xưa, nhưng chính tác giả tả dòng sông từ nhiều góc độ khác nhau, bày tỏ tình cảm của mình với dòng sông tiêu biểu này, tức là với lối viết của Nguyễn Tuân, sông Đà đã trở thành dòng sông của Nguyễn Tuấn.

Sông Đà có cả địa lý và lịch sử. “Ông ấy quê ở huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, lấy tên là Lý Tiến, đi qua một vùng núi ác, rồi gần nửa đường, xin nhập quốc tịch Việt Nam, lớn lên và đến ngã ba bên Trung Quốc. Hà hòa với sông Hồng”.

Dòng sông nghe như con người, ai sinh ra, xin làm công dân, lớn lên… Ngôn ngữ học nói là nhân hóa, thực ra là nghệ thuật, dòng sông có sự sống và rất ổn định. , rất đẹp. Xưa, nhà Trần đã lấy sông Đà đặt tên cho một trong 15 quốc lộ: lộ Đà Giang. Chính vì thế Truyền Thuyết Mãn Lục mới có chuyện Đà Giang Đà Đập lấy bối cảnh thành Nhà Hồ cuối thời Trần.

Lộ Đà Giang là vùng đất từ ​​Hưng Hóa trở vào. Bây giờ ta gọi là vùng Tây Bắc, từ Lai Châu xuống Hòa Bình, được nối với nhau bằng sợi dây khổng lồ (chữ của Nguyễn Tuân) là sông Đà, nhìn từ máy bay. Sông Đà có lịch sử và truyền thống cách mạng. Dù lịch sử có đổi thay, dòng sông Đà vẫn thuộc quyền sở hữu của người dân vùng Tây Bắc Việt Nam. Nó dữ, nó hiền là một chuyện nhưng người ta vẫn sống chung với nó.

Đừng nói chuyện quá khứ, Chỉ khi Tây sang cướp nước ta, ông Thái này đã đánh nhau với nhà yêu nước Cần Vương Nguyễn Quang Bích, rằng Hoàng giáp phủ Hưng Hóa mới chiến đấu đến cùng và trong thơ nhật ký của ông. Biết bao tên các nước vùng sông Đà trong hành khúc của Người. Tiếp đó là thời kỳ chàng Tày cai trị với đủ loại địa chủ uể oải, tham lam và độc ác. “Dòng sông bị chúa đất cắt thành từng mảnh nhỏ khiến dòng sông trở nên hung ác hơn! Đế quốc đóng đồn ven sông, độ hung ác của dòng sông tăng lên mấy lần.

Tuy nhiên, người Thái không chịu rời sông. Hơn hai mươi năm sau, công trình thủy điện Hòa Bình gần như đã hoàn thành. Sông Đà bị chặn để làm điện, làm hồ. Hồ dài hàng trăm cây số là cảnh du lịch, nơi nuôi cá, giao thông đi lại thuận tiện, thuyền bè ngược xuôi nhẹ nhàng, không còn cảnh lên xuống ghềnh thác nguy hiểm, tuy rất nên thơ và hào hùng như thuở xưa. ngày.

Mặt khác, ta còn thấy sông Đà hung dữ, sông Đà hùng tráng. Tạo ra một môi trường sử thi phải là một cái gì đó dữ dội, nguy hiểm cao, vượt qua phải là một thiên tài, tôi ít nhất phải có một tài năng hiếm có, nhưng đó phải là sự kiên trì, đôi khi thậm chí lao vào cái chết để giành lấy mạng sống, và tất nhiên là phải chiến thắng vẻ vang trong kết thúc. Sông Đà là một môi trường như vậy. Về bản chất nó đã được. Tài năng của nhà văn làm cho thiên nhiên đó trở nên sắc nét hơn, dữ dội hơn, nguy hiểm hơn.

Cây cỏ hoa lá hai bên, ánh trăng, nhà cửa, xóm làng ven sông đều nằm trong cảnh sông nước, nhưng những thứ này bình thường nhẹ nhàng không nói, đẹp đẽ ấm áp hạnh phúc, không nói không lùi bước. Trước hết phải nói khúc ruột sông nước. Cát là thứ bình thường nhất phải không? Cát dưới sông có hại khi chất thành gò, khiến thuyền mắc cạn. Ít ai nghĩ rằng, chỉ mặc khố sông Đà có thể làm lở loét da thịt chứ chưa nói đến mặc quần, vì nó chui vào bẹn và ăn da, còn ở dưới nước, nếu cởi trần, “nó thủng gan. Bàn chân của họ bị rỗ như những vết rạch của những con hàu đâm thủng đáy và mặt dưới của những chiếc thuyền gỗ.

Đó là cát xấu. Bờ cũng không hiền. Có nơi “nó xây thành, mặt sông ngay chỗ mặt trời ngay ngọ. Có những vách đá chắn ngang lòng sông như yết hầu. Có một thời con hươu, con hổ đã từ bờ nhảy lên. ngồi trong khoang phà ngang qua quãng đường ấy, trời còn se se lạnh của mùa hè, tôi có cảm giác như mình đang đứng trong một con hẻm và nhìn lên ô cửa sổ từ tầng hai vừa tắt đèn. .

Ở ghềnh Hát Loong là một vương quốc của gió kết hợp với nước, đá, sóng thành những vòng xoáy: nước xô đá, đá chọi sóng, sóng cuộn vào cuộn trào. ai cũng đòi nợ” (nợ: dù không có nợ cũng đòi), nhưng nếu không đòi được bằng tiền thì bắt người lái đò dừng lại và “lật ngược thuyền”. xuống”. Cát, vách đá, gió đều đáng sợ, nhưng không gì đáng sợ bằng “cát hút nước”.

Có lẽ cái tên này không phải do tác giả đặt ra mà do người dân địa phương, ít nhất là từ những người lái đò trên dòng sông này. Đó là một vùng nước xoáy, nước đang trôi êm đềm bỗng không có gì nổi trên mặt nước mà dòng nước ở đó cứ xoáy tròn một vòng rất đẹp để rồi chìm xuống một chỗ lõm như lõm một đồng xu. trên một cái má xinh xắn. Có ai ngờ đó lại là nơi nguy hiểm nhất cho những con thuyền ra khơi trên mặt nước.

Nước ở đó đặc lại như dầu sôi vừa được rót vào. Tiếng nước chảy róc rách, có lẽ là sông Đà mới. Còn “những chiếc bè trong rừng đi ngang qua vô tình là những cái giếng hút nó kéo xuống, vừa đáng sợ vừa buồn cười là chiếc thuyền bị lạc vào đó, chiếc thuyền cắm ngược một cây chuối rồi lặn mất tăm, chết chìm rồi đi”. dưới lòng đất cho đến mười phút sau, nó được tìm thấy đã chết dưới đáy sông.

Cái đáng sợ nhất của sông Đà không phải những thứ đó mà là đá và thác, thác và đá Thạch Trận, hay đúng hơn là Thạch Thủy Trường. Nguyễn Tuân có ý trình bày một kiểu trận như Bát trận đồ của Khổng Minh theo binh pháp Tôn Ngô mà Khổng Minh đã tái hiện. Tất nhiên là có một chút hiện đại. Không có mảng Rồng rắn, nhưng có Trận đá. Thạch Trận đủ cửa sinh tử. Bát trận không đủ, mà có trận trước trận sau, trận trên dưới, nhiều lớp nhiều đường, có tiên phong, dự bị… Không có tướng giữ cửa, mà có Nguyễn Điển, Mã Siêu, Quang Hưng , Trương Bào nhưng có tướng. đội quân đá và nước.

Hòn đá “nghìn năm vẫn mai phục dưới lòng sông, khi có thuyền xuất hiện, mấy hòn nhô lên chộp lấy… Mặt hòn nào cũng chênh vênh, hòn nào cũng trùng nhãn, méo mó”.. .chúng bị phân tán một cách tùy ý, nhưng chúng không phải vậy. “Dường như sông đã giao việc cho từng cù lao, sông bày trận Thạch”, Thạch Thủy Trường. Stones được chỉ định tốt. Những tảng đá được chia thành ba hàng, chặn ngang dòng sông.

“Hai cù lao và một cửa đá đóng vai trò dụ thuyền hai bên vào dòng giữa rồi nước sông sẽ dội ngược trở lại”. Con thuyền không chịu chìm mà vẫn tiến về phía trước, một trận chiến khác đã sẵn sàng. Các tướng ở đây oai phong lẫm liệt. Trông như những vị tướng trên sân khấu tuồng. Sân khấu là tung râu, đạp giáp, múa giáo hay múa giáo, còn đây tướng đá chẳng khác nào “hỏi hàm xin thuyền xưng danh trước khi giao chiến”. Một nhà vô địch nhạc rock khác “lùi lại một chút và thách thức chiếc thuyền tốt đến gần hơn”.

Nhưng các phòng tuyến của Thạch Trận lần lượt bị phá vỡ. Cửa tử thần không dụ được thuyền. Cuối cùng, “anh chàng đá quán quân đứng ở lối vào có khuôn mặt thất vọng tái nhợt”. Tưởng như sáp bị tội trong binh pháp: quân thua chém tướng. Hết đá tới nước, ra quân trị nước. Đá dưới nước không nhẹ nhàng ở bất cứ đâu. Nước lặng. Nhưng với đá, với gió, nước trở nên hung dữ. Nước sông Đà rơi vào loại đó, tính từ Chợ Bờ trở vào. Chỉ nghe tiếng nước thôi đã thấy hãi hùng. “Vẫn còn một chặng đường dài để đến thác nước phía dưới.

Nhưng khi tôi nhìn thấy tiếng nước, nó càng lúc càng to hơn”. Ở đâu có tiếng nói. “Có lúc nghe như phàn nàn, lúc lại như van xin, lúc lại như khiêu khích, giọng gầm gừ, giễu cợt. .” Đột nhiên, không biết chuyện gì đang xảy ra, “ông rống lên một tiếng cả ngàn con trâu mộng tranh nhau lột da cháy giữa rừng trúc và rừng trúc cháy. Ở giữa dòng thác, một bên là đá chắn ngang, một bên là nước, những con sóng nhằm con thuyền để chống trả, đồng thời là “niềm vui đoàn viên”.

Có lúc nó kêu như sôi đến cả trăm độ, muốn hất đổ con thuyền phải đóng nắp, một nồi nước sôi khổng lồ. Nhưng không ở đâu tiếng nước lại lạ như ở các giác hút, ở đó “nước ọc ọc như vừa đổ dầu sôi vào”. Âm thanh của nước đã khủng khiếp, sức mạnh của nước còn đáng sợ hơn. Đừng nghĩ ổ gà chỉ tồn tại trên đường chứ không phải trên đường. Mặt sông cũng có ổ gà. “Đi vào ổ gà của sông, thuyền bị kéo xuống và nâng lên.

Nước theo dòng chảy. Đối với thác nước, sông có nhiều kênh. Nếu đi sai luồng là chết ngay, chết đi sinh lại vẫn được như thường.” Lúc khác nó có thể “chất thuyền lên, bám vào thuyền như con vật, túm lấy thắt lưng người chèo thuyền để hỏi. cho nó lật ngửa” anh mê phơi bụng nó “giữa mưa bão”. Thủy đã trở thành một võ sĩ thực thụ. Nó “đánh đòn hiểm nhất: bóp bộ phận sinh dục của ông lái đò, bộ phận sinh dục muốn vọt lên đến cổ anh ta.

Bây giờ nó là một con ngựa bất kham. Nó đang thờ trên sông Đà.” Thế là anh lái xe “ôm bờm con sóng cũ, nắm dây cương, phóng nhanh về cổng sinh”. Nó đã phải từ bỏ. Nhưng đến chỗ hút là nằm chờ, nếu đuối thuyền sẽ rút vào đá, chết không kịp ngáp. Chẳng khác gì dân gian đồn Hà Bá lên lấy gỗ. Sông Đà quả không sai lời đồn. Nó rất buồn tẻ. Cát hung, bờ hung, gió dữ, hút nước, tà ác dồn về Thạch Trận, đá và nước bẫy người trong chốn tử địa.

Tác giả đã dùng ngòi bút trăm màu và con mắt đa sắc của mình để có hàng loạt hình tượng khác nhau luôn độc đáo, vừa trí tuệ vừa tạo hình, vượt khỏi những thủ thuật thông thường. là sự nhân hóa đi vào bản chất sâu sắc nhất, đặc sắc nhất của sự vật thành những trang văn biến hóa khôn lường. Bên cạnh cái ác, ta còn cảm nhận được sông Đà đẹp, sông Đà trữ tình. Lên thác phải chống cột băng.

Việc hút nước đã là một điều đáng sợ, nhưng thử tưởng tượng bạn đi xuống đáy nước rồi lia máy ngược lên “mặt giếng có thành xây toàn bằng nước sông xanh và một lớp nước dày đặc…”, sức hấp dẫn thật khủng khiếp. Sự gớm ghiếc biến thành một cảnh đẹp không thể tin được. Nhìn từ trên máy bay, sông Đà như một sợi dây thừng ngoằn ngoèo, nhưng không ai nghĩ rằng nó đã làm ăn với người dân Tây Bắc từ bao đời nay.

Tham Khảo Thêm:  đề thi học kì 2 lớp 3

Từ cùng một trời nhìn xuống, đôi khi ta thấy sông Đà như “một sợi tóc, sợi tóc, chân tóc trữ tình ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, hoa ban, hoa gạo tháng hai, sương cuộn núi Mèo, nương rẫy mùa xuân cháy bỏng”. . Nước sông Đà đẹp. “Mùa xuân nước xanh màu ngọc bích chứ không phải màu xanh hến của sông Gâm, sông Lô. Vào mùa, nước sông Đà chín đỏ như da mặt người bị rượu làm cho bầm.” Màu này với màu kia hoàn toàn chính xác, điều đó không nói lên điều gì, nhưng sao màu tóc ấy lại trữ tình ?

Tất nhiên phải là nhìn từ trên trời nhìn xuống, nhìn suốt từ chân tóc đến ngọn tóc, xõa ra, uốn xoăn, xòe ra, co lại – thiếu mùi nước bưởi. và của tuổi trẻ – nó là dòng sông mà sao nói lên bao nhiêu điều cho khách xem? Nó lại chập chờn trong khói lửa nương rẫy (rất nguy hiểm cho núi rừng) và mây trời nở trắng, hoa ban trắng, hoa gạo đỏ hồng. Tạm coi những điều trên là một góc nhìn. Và đây là cảm nhận. Tác giả nói ngay: “Con sông Đà gợi cảm”. Mọi người đều khác nhau.

Với tác giả, ông từng xem nó như một người bạn cũ, một người thân, một người tình cũ lâu ngày không gặp. Ông già ấy chợt hiện ra sau một khúc cua gấp từ trên núi thành một tia sáng le lói rồi một màu nắng tháng ba. Đường Thi “Yên ba, ba trăng, Dương Châu” (Thơ của Lí Bạch trong bài “Vĩnh Quảng Lăng”). . Ôi, nắng tháng ba trên sông vừa là khói vừa là nước lấp lánh, xuân lại về, nhựa sống trên cành, trên thân, trong lòng, đẹp biết bao, ấm áp làm sao!

Người bạn thanh mai trúc mã của Lí Bạch đã ra đi trong tiết trời sương khói ấy, không biết có phải men xuân đang tích tụ trong từng thớ thịt của ông mà ở tác giả đoạn văn này, ông như hòa mình vào hội xuân của mình. Chuồn chuồn, bươm bướm, của nắng cháy mặt sông, của những rặng san hô xanh nhảy xuống nước như bạc rơi, của những chú nai cúi đầu chống chọi với sương đêm, của dòng sông Đà thơ mộng của Tản Đà “Dải” bồng bềnh bọt nước sông Đà – Bấy nhiêu cảnh, bao nhiêu tình” và của những nương ngô mới nhú vài lá ngô non đầu mùa…

Những dòng sông, đôi bờ, thanh tịnh không một bóng người. Bờ sông hoang sơ như bãi tiền sử, gần nhất là thời Lý Trần. Đẩy cảm giác ngược dòng thời gian, tác giả bỗng thèm tiếng còi tàu Yên Bái – Lai Châu làm cho màu sắc cổ tích xưa trở nên hiện đại cho cảm giác hai chiều tràn đầy. kim cổ.

Kết thúc đoạn trữ tình này, lại hiện ra một không gian khoáng đạt của mặt nước phẳng lặng nhớ bạn ghềnh thác, giọng miền xuôi mượt mà rộng rãi, những cánh buồm căng rộng đón gió muôn phương trên cao. Những chiếc thuyền tự nở hoa chứ không phải những chiếc thuyền đuôi én khiến cảm xúc trào dâng không dứt. Sông Đà dữ dội, nhưng sông Đà cũng rất trữ tình.

Đặc biệt, sông Đà còn tạo ra con người cho mình. Có một người đàn ông lái đò trên sông Đà. Ông sinh ra bên bờ sông Đà, uống nước sông Đà từ nhỏ. Anh ta chắc cũng đã lặn dưới đáy sông. Bây giờ đã mấy mươi năm anh dừng con đò sau mười năm xuôi ngược, lái sáu chục phen, trăm phen ngược xuôi từ Lai Châu về Hà Nội, bên nào, tảng đá nào, con suối nào anh không thuộc về. ĐẾN.

Nhìn từ hình dáng bên ngoài: “Tay anh khập khiễng như cái sào, chân lúc nào cũng khuỵu xuống như kẹp một cành tưởng, giọng ồm ồm như tiếng nước trước ghềnh, mắt anh ngân ngấn nước. . như luôn mong về một bến xa nào đó trong sương mù.” Cuộc sống sông nước đã rèn cho ông một “thân hình cao gầy như sừng mun”. Cũng chính cái nghề ấy đã biến tất cả những người lái đò sông Đà vốn chỉ khỏe tay chân yếu ớt, chạy rất ì ạch.

Điệu bộ của anh ta cũng giống như người lái đò: ngắt lời người khác, “anh ta nhanh như chong chóng như chong chóng rẽ qua sông và men theo dòng thác chéo”. Từ hình thức đến hiểu biết. Người chèo thuyền, anh ta biết chiếc thuyền. Vì sao thuyền Tây Bắc chỉ mảnh mai mà không nở nang? Không phải vì đất nước này thiếu gỗ, ngược lại, cũng không phải vì họ không biết rằng thuyền của họ có thể chở được nhiều hàng hóa. Cần phải đóng một chiếc thuyền có đuôi én để đi qua các cửa hẹp của luồng hẹp. Cánh buồm cũng vậy. Lái đò trên sông Đà ở vùng cao phải cần sào, chèo đò, dây kéo, ít dùng buồm.

Về phía dưới, cánh buồm, ” căng hai cọc làm cột buồm, căng mái nhà làm cánh buồm, treo lên. Tuy nhiên, chân trời Tây Bắc và sông Đà thường vướng núi, cánh buồm đi mãi sườn núi, những hình ảnh không mấy quen thuộc của người dân hai bên sông Tây Bắc, đến với sông nước là anh thuộc như lòng bàn tay, Sông Đà với anh chỉ có hương vị đậm đà từ Chợ Bờ mặt sau.

Cuộc đời người lái đò trên sông Đà là cuộc đời chiến đấu thực sự. Chỉ cần nghe một chuyến xuống thác đủ biết. Khi đó, thiên nhiên sông Đà là kẻ thù số một. Nhìn vào có thể thấy đây không phải là một thứ “thơ Đường” nhàn tản, mà là một cuộc đấu tranh giành lấy sự sống từ trong tay mình. Đá được đặt ra như thế nào, nước chảy như thế nào, nước gầm rú như thế nào, nước ào ạt như thế nào, dòng nước chảy ra sao. Sinh có đá hộ vệ cắn mật, suối tử có đá dụ vào, có khi suối ở tay trái, có khi suối ở tay phải, loại đá nào trên mặt tướng, khi nào thì đè đầu dòng để tiến, khi nào thì nắm bờm sóng mà vượt, làm sao vững tay lái khi xung quanh tiếng sóng reo ầm ĩ để thanh lọc…

Chiến đấu với đá và nước cho đến khi kiệt sức, tắt thở, tưởng chừng như kiệt sức, nhưng xong thác, khi “sóng xèo xèo tan trong ký ức, sóng nước lại êm đềm, không còn ai nói chuyện đời. cổng đầy những tướng lĩnh hung dữ.” Cuối thác, dòng sông thanh bình, lòng người lái đò cũng thanh thản. Trận chiến cam go, nhưng vẫn là chuyện thường ngày, không có gì phải hồi hộp, đáng nhớ, Sông Đà, đối với người lái đò, thực sự là “bản anh hùng ca mà anh biết tất cả những dấu hiệu của cuộc sống. dấu câu và ngắt dòng.

Bản thân ông đã sống một cuộc đời anh hùng, nhưng sự hào hùng đó là chuyện thường ngày nên ông không coi đó là điều gì đặc biệt. Ông đã nhào nặn thân mình vào tầm vóc sông Đà và sông Đà đã rèn ông theo khuôn mẫu của ông. Giống như người bán thịt; bởi vì không có gì của sông Đà mà bạn không biết. Ngược lại, ở ông không có gì không phải là hình ảnh sông Đà.

Tóm lại, đọc văn Nguyễn Tuân, đặc biệt là tùy bút, có người đã ví như nhìn vào kính thiên sắc (kính Thiên sắc là đồ chơi trẻ con), chỉ là mấy mảng màu lắc qua một bên, một thế giới muôn màu, muôn vẻ. lắc phía bên kia. Một thế giới khác của màu sắc. Bút của ông không chỉ có bảy màu mà có hàng trăm màu. Từng câu, từng chữ đều hay, nếu người đọc chịu để ý từng câu, từng chữ, mới thấy giá trị và công sức bỏ ra, nhiều khi đến bạc tóc như người xưa nói, để có được chữ ấy, câu ấy.

Đọc Người lái đò sông Đà ta thấy rõ chủ trương của tác giả về bút pháp. Từ ngữ phong phú, chắt lọc, câu văn đôi chỗ khúc chiết nhưng vẫn là Việt Nam và con người, những hình ảnh ví von luôn bất ngờ, độc đáo và chính xác, không né tránh hiện thực phũ phàng mà vẫn đắc địa.

Chi tiết bài văn này hay, toàn bài thể hiện sự hiểu biết khoa học thấu đáo và trên hết là tấm lòng yêu dân, yêu nước, yêu những gian khổ đã vượt qua như thế này. một bản anh hùng ca, vì vậy hãy ấp ủ ước nguyện về một tương lai tươi sáng và hạnh phúc.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 18

Khi trái tim tôi hóa thành những con tàu Khi Tổ quốc bốn phía hát vang Tâm hồn tôi là Tây Bắc, nhưng không còn nữa.

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Hoàn cảnh lịch sử ấy diễn ra khi cả nước nô nức đi theo tiếng gọi của “hồn Tây Bắc” để cùng nhau xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc. Lúc bấy giờ có nhiều nhà văn, nhà thơ dường như đã trải qua quá trình biến đổi để đến với cách mạng. Trong đó không thể không nhắc đến nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Tuân, người được ví như cây độc của nền văn học Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Tuân sáng tạo tác phẩm “Người lái đò sông Đà” để có thể thể hiện rõ nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của mình.

Có thể nói, nói đến nghệ thuật, đối với Nguyễn Tuân là nói đến sự tìm tòi, sáng tạo, bởi chính nhà văn là người làm lại thế giới. Tác giả Nguyễn Tuân sợ mình hôm nay giống mình hôm qua, sợ cái trùng lặp tầm thường. Vì vậy, ông lấy “chủ nghĩa dời” làm chủ đề cho tác phẩm của mình, phải đi tới đâu mới viết được những tác phẩm có giá trị.

Hình ảnh con sông Đà cũng đã được nhiều nhà văn, nhà thơ khắc họa nhưng phải đến Nguyễn Tuân, con sông Đà mới hiện lên chân thực và vô cùng cảm động. Với ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên vừa hung bạo, vừa trữ tình. Dòng sông Đà vẫn mang dã tâm xảo quyệt của kẻ thù số một, tất cả đều có thể cướp đi sinh mạng của bất kỳ ai lỡ sa chân vào “thạch trận”…” Chưa dừng lại ở đó, nước sông Đà như sôi sục lên đến một trăm độ… những tảng đá ở đây đã bị mai phục hàng nghìn năm dưới lòng sông.” Nguyễn Tuân còn miêu tả hễ thấy thuyền vào là chúng “nhảy lên vồ lấy”… Nhưng sự hung hãn dữ dội ấy vẫn không làm mất đi chất trữ tình của sông Đà, nhà văn còn miêu tả nổi bật hình ảnh dòng sông ở hạ lưu. không chỉ vậy, ngòi bút của Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, uyển chuyển, thơ mộng với cách miêu tả: “Dòng sông Đà chảy như áng tóc trữ tình, đầu ấp tay tóc mây trời Tây Bắc, hoa ban, tháng hai lúa trổ bông”. và khói cuồn cuộn núi Mèo đốt ruộng xuân.

Chính trên dòng sông ấy, hình ảnh người lái đò hiện lên, dữ dằn và phi thường. Khi đứng trong cuộc chiến “một mất, một còn” với thác nước, tác giả Nguyễn Tuân lúc này cũng cho ta thấy tài năng và bản lĩnh tuyệt vời của người lái đò. Hình ảnh người lái đò sông Đà cũng là một hiện thân của tác giả, ông chỉ thích dấn thân vào những trận nguy hiểm với thác dữ nhưng cũng không thích chèo thuyền trên dòng sông phẳng lặng…

Sử dụng giọng văn rất tự nhiên, phóng khoáng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của cùng một sự vật là một thành công của Nguyễn Tuân. Hình ảnh con sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, đồng thời con sông Đà cũng là kẻ thù mà là bạn cũ. Dưới ngòi bút của tác giả, dòng sông không chết mà chuyển động mạnh mẽ, sôi nổi trong ngôn từ gợi hình ảnh, tất cả dường như tác động mạnh mẽ vào giác quan người đọc. Hình ảnh người lái đò cũng hiện lên sinh động, thể hiện sự sắc sảo, sắc sảo… Với nhà văn Nguyễn Tuân, “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Thứ nhất, chữ viết phải đẹp và trau chuốt. Và chính vì vẻ đẹp ấy đã chi phối cái nhìn của tác giả Nguyễn Tuân như đứng trên toàn bộ tác phẩm. Hình ảnh con người, vạn vật lúc này cũng qua ngòi bút của Nguyễn Tuân được khai thác trên những phương tiện nghệ thuật và tài hoa nghệ sĩ như thế nào.

Qua bài văn, vẻ đẹp của sông Đà được coi là một công trình sáng tạo của tạo hóa. Sông Đà vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Nó đẹp từ hình dáng đến màu sắc, với những câu miêu tả dòng nước, tốc độ chảy của sông Đà mới đẹp làm sao. Nó cũng là nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều văn nghệ sĩ. Nước sông Đà mùa xuân trong xanh màu ngọc bích, sang thu nước sông Đà như đỏ chín như da mặt người ta bị thâm vì rượu.” Hình ảnh về dòng sông ấy đối với tác giả là không chỉ là một cảnh thiên nhiên đẹp mà nó còn rất gợi cảm.Dòng sông Đà dường như đã gây bao nỗi nhớ nhung cho những ai đã một lần gặp rồi lại ra đi.Khi gặp lại sông Đà, tác giả Nguyễn Tuân cũng cảm nhận được tâm hồn mình lòng nhẹ bẫng, vui như gặp lại cố nhân mà phải thốt lên: “Ôi, nhìn dòng sông mà vui như thấy nắng tan sau mùa mưa, vui quá. như nối lại một giấc mơ tan vỡ”.

Cũng chính trong cái đẹp, một vẻ đẹp sống động nên thơ của đất trời, hình ảnh con người hiện lên như một nghệ sĩ tài hoa. Người lái đò sông Đà khéo léo điều khiển con thuyền một cách chủ động và điêu luyện nhất như một nghệ sĩ. Hình ảnh người lái đò luôn hiên ngang trước những con sóng dữ và buộc chúng phải đầu hàng. Với đoạn văn miêu tả cảnh người lái đò vượt thác thật hay: “Chạm phải bờ sóng theo luồng, người lái đò nắm chặt dây cương, nắm chắc dòng nước bên phải, lao nhanh vào cửa sinh, lái hết đường đi, chèo về phía cánh cửa đá đó.” Nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái đò như thể một nhạc công đang chơi đàn violon rất hay, nhịp nhàng không chệch một nốt.

Có thể nói, tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là một bước tiến lớn trong phong cách Nguyễn Tuân. Trước cách mạng, nhà văn Nguyễn Tuân lúc bấy giờ cũng thường đi tìm đề tài cho tác phẩm của mình bằng cách ngược về quá khứ. Nguyễn Tuân luôn viết và học với một quá khứ vẻ vang. Người đọc dễ dàng nhận thấy nhân vật của Nguyễn Tuân là Huấn Cao, một viên quản ngục mang tâm trạng của một kẻ hoang phí “biết đội đầu ai”. Tất cả những nhân vật “vang bóng một thời” đều là những anh hùng ngang dọc, đều là những thứ khinh địch. Nhưng sau cách mạng, nhà văn Nguyễn Tuân đã tìm thấy cái tài hoa, cái nghệ thuật ở những con người lao động rất bình dị, gần gũi nhất ngay trong những công việc bình dị mà họ đang làm.

Với tác phẩm “Người lái đò sông Đà”, người lái đò hiện lên trước mắt ta như một nghệ sĩ tài hoa, có tâm hồn vẹn toàn. Nguyễn Tuân cũng miêu tả hình ảnh người dân bình dị lái đò. Ngoài ra, Nguyễn Tuân còn thể hiện sự kính trọng, ngưỡng mộ đối với những con người có công xây dựng Tổ quốc. Chính trong việc tái hiện hình ảnh sông núi Tây Bắc và bên cạnh hình tượng người lái đò, tác giả Nguyễn Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện của các ngành nghệ thuật khác nhau trong tác phẩm của mình như: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc.. .Mọi vật, mọi vật như hiện ra trước mắt ta thật hùng vĩ và sống động. Tả đoạn văn “Quay một vòng trên sông, thấy bọt sóng tung trắng cả chân trời đá”. Dòng sông Đà còn có tiếng sóng vỗ vào ghềnh đá, vào mạn thuyền rồi sóng dậy thành thác núi. Đọc tác phẩm, người đọc như được chứng kiến ​​cuộc vật lộn giữa người lái xe và dòng thác, đồng thời cũng được chứng kiến ​​từng khúc sông hung dữ, lởm chởm đá ngầm, đá trôi và cả những dòng sông êm đềm, trữ tình biết bao.

Không phải ngẫu nhiên mà người ta coi Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn tài hoa và uyên bác. Vì vốn liếng cũng như nguồn tri thức đồ sộ về lịch sử, khoa học, địa lý, sinh học… của anh là rất lớn. Tất cả những kiến ​​​​thức này cũng thường tràn ngập trong công việc của anh ấy. Thể hiện rất rõ trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân còn đưa ta về một miền quê hương. Địa danh sông Đà, rồi lịch sử sông Đà được Nguyễn Tuân giới thiệu bằng những trang viết đầy uyên bác và tài hoa.

Đặc biệt, khả năng diễn đạt và năng khiếu ngôn ngữ của tác giả rất phong phú. Mỗi từ khi đặt vào một câu dường như đã được chọn lọc và gọt giũa một cách cẩn thận. Nguyễn Tuân còn khéo sáng tạo nhiều từ mới, độc đáo. Giọng văn của Nguyễn Tuân có lúc có vẻ thô, có lúc cũng có vẻ dàn trải nhưng lại rất cô đọng, tự nhiên. Tác giả không chỉ viết xuất sắc mà còn khiến người đọc cảm nhận được sự âm vang trong từng đoạn văn.

Tác giả đã viết về người lái đò sông Đà, cũng như viết về một quê hương, nhà văn Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn tình yêu thiết tha của người lao động và thêm vào đó là tình yêu thiên nhiên. quốc gia. Quả thật, chính văn chương của ông đã mang đến cho chúng ta một vẻ đẹp tài hoa và tri thức uyên bác.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 19

Nguyễn Tuân là một nhà biên khảo lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và đạt được sự cân đối giữa hai giai đoạn lịch sử trước và sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Qua mốc thời gian đó, tư tưởng và phong cách của ông tất nhiên có những thay đổi nhất định.

Nhưng dù thay đổi thế nào thì vẫn trên cơ sở thống nhất của một cái tôi rất Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác, yêu cảm giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và miêu tả cái đẹp. Người lái đò Sông Đà rút trong bài tùy bút Sông Đà – một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, văn tùy bút Nguyễn Tuân ngày càng phong phú về chất. Tức là tư liệu rất phong phú và lộn xộn, nhất là tư liệu về địa lý, lịch sử, dân tộc học. Nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, những văn bản ấy trở thành những hình ảnh sống động, những con người sống động, những nhân vật có linh hồn. Vì vậy, bài văn không chỉ có một nhân vật mà có hai nhân vật: người lái đò và con sông Đà.

Nguyễn Tuân đã tạo nên một con sông Đà không phải là một thiên nhiên vô tri, vô giác mà là một con người năng động, có cá tính, tính cách, tâm trạng và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách trái ngược nhau cơ bản – như cách nói của tác giả – “bạo lực và trữ tình”. Khi trở nên hung bạo, nó dường như là “kẻ thù số một” của con người. Nhưng khi trữ tình thì đầy chất thơ, rất nhẹ nhàng, gần gũi, như một người tình, một “cố nhân” vui mừng gặp lại, nhớ nhung nhớ nhung.

Hai nét tính cách ấy đã cuốn ngay vào cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Tuân – một nhà văn luôn khao khát những tình cảm, cảm xúc mới mẻ, nồng nàn, say đắm. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân viết rất hay về đèo cao dốc đứng, về gió, về bão, về thác dữ, nếu không muốn nói là về vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh, người, của đáy ngọc. của biển, của bầu trời trong vắt trên đỉnh núi Mèo, của hoa thủy tiên nở trong đêm giao thừa, của vẻ đẹp của nàng Kiều nghiêng mình xuống nước, v.v.

Về tính hung bạo của sông Đà, từ xa xưa, ông cha ta đã mô tả nó bằng biểu tượng Sơn Tinh – Thủy Tinh: “Núi cao sông dài – Năm năm muôn kiếp thù oán”.

Nguyễn Tuân không thể dùng lối huyền thoại ấy mà phải dựng nên những bức tranh tả thực về cảnh hùng vĩ, dữ dội của sông Đà khiến người đọc rùng mình như đứng trước cảnh thực. Ông đã tung ra biết bao ngôn từ đắt giá, biết bao biện pháp diễn đạt mạnh mẽ để quyết tranh đoạt với Tạo hóa.

Chẳng hạn, ông đã dùng biện pháp liên tưởng, so sánh để miêu tả đoạn sông bị cắt giữa hai vách đá cao: “Ngồi trong khoang thuyền ngang qua ấy, đang là mùa hè mà lòng thấy lạnh, lòng như bâng khuâng. đứng dưới nước.hè một con hẻm và nhìn lên ô cửa sổ tầng hai của ngôi nhà vừa tắt đèn.”

Và ở đây cũng vậy, ông mô tả sức hút khủng khiếp “giống như cái giếng bê tông được thả xuống sông để chuẩn bị đổ móng cầu. Nước ở đây thở nghe như tiếng hố ga bị nghẹt. Trên mặt mút xoáy ở đáy, cũng xoáy cánh quạ […]. Nhiều bè mảng trong rừng bơi qua vô tình bị giếng hút kéo sập xuống. Có thuyền bị lực hút của nó hút xuống, thuyền cắm cây chuối ngược rồi lặn mất tăm, chìm xuống lòng đất đến chục phút sau mới tan xác ở hạ lưu sông”.

Sử dụng thủ pháp văn chương như vậy, ông vẫn cho là chưa đủ. Nguyễn Tuân cũng chuyển sang sử dụng thủ pháp đặc tả điện ảnh. Anh tưởng tượng ra một tay quay phim dở hơi nào đó, ngồi trong một chiếc thuyền thúng và hút xuống tận đáy cái con mút kinh khủng đó, cả người lẫn máy:

“Con thuyền quay, phim màu cũng quay, chiếc máy quay contre-plongee trên mặt giếng có thành hoàn toàn bằng nước sông trong xanh và một lớp thủy tinh đúc dày, pha lê xanh như sắp tràn ra. đập vào máy quay, cả người quay và người xem. Bộ phim lấy được người trong đáy giếng, thôi thúc người xem biên niên sử thấy mình đang ngồi co rút gân cốt như nắm được mép lá rừng vừa hất vào cốc nước pha lê khổng lồ. rút lui. trên thanh phèn.”

Trí tưởng tượng của Nguyễn Tuân thực sự đã được đẩy đến mức lạ lùng, kỳ quái do động cơ ngoan cố của ông: không chịu lùi bước trước Tạo hóa.

Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà thực sự trở thành một con thủy quái khổng lồ. Tiếng nó gầm rú qua những thác nước hung dữ, từ xa đã nghe rợn người: “tiếng nước đến gần càng lúc càng to, càng lúc càng to. Tiếng thác nghe như một lời phàn nàn, rồi van xin, rồi khiêu khích, giễu cợt. Khi đến gần, giọng nói của nó bỗng “gầm lên như ngàn con trâu mộng nép mình giữa rừng trúc rừng trúc bừng bừng lửa cháy rừng rực, rừng lửa rống theo bầy trâu đang thiêu đốt”.

Con thủy quái không chỉ hung dữ. Nó cũng rất tinh ranh. Trong cuộc giằng co với người lái đò, nó đã bày đủ trò quỷ quyệt để lừa mọi người vào trận địa đã bày sẵn và hướng họ đến cửa tử. Đến khúc sông thì tập kích. Nếu bạn có thể lôi kéo trong sâu, bạn sẽ đánh bại. Bộ giáp đầy rẫy những ngón đòn độc ác: âm dương, đá trái, thúc gối, bấu eo, lộn nửa người, bóp bộ phận sinh dục v.v… Vừa đánh vừa kêu trời kêu đất để áp đảo tinh thần. kẻ thù,…

Nhưng sau khi vượt qua thác dữ, dòng sông trở nên rất êm ả và thanh bình. Nguyễn Tuân gọi đây là nhân vật trữ tình của sông Đà. Sông Đà bây giờ như nàng tiên giáng trần. Nó “trôi chảy như một áng tóc trữ tình, ngọn tóc và chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc mùa hoa gạo nở rộ”.

Đẹp làm sao khi ngắm nhìn những đám mây mùa xuân bay trên sông Đà. Nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa: mùa xuân thì xanh màu ngọc bích, mùa thu thì đỏ au như da mặt người say… Cảm hứng dồi dào, nhà văn cũng muốn trở thành thi nhân. Anh thấy rằng “càng ngày lòng càng muốn làm thơ thành sông”.

Từ những nét khắc gân guốc, táo bạo, từ những màu sắc gây ấn tượng dữ dội, Nguyễn Tuân chuyển sang những đường nét thanh thoát, nhẹ nhàng, thơ mộng. Quả thật, nhiều khi ông đã đạt đến khả năng gợi của ngôn ngữ thơ, tức là nói được những điều mà văn xuôi khó nói: đây là cái mà ông gọi là “màu nắng tháng ba Đường Tăng”, “Yên Hoa Tâm Tâm Hà Dương”. Châu” – thấp thoáng trên mặt sóng sông Đà.

Đó là sự bâng khuâng của dòng nước chảy chầm chậm như nhớ về những ngọn thác xa còn sót lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Có gì đó giống như nỗi nhớ mênh mang, mơ hồ của thi sĩ Tản Đà đối với “người tình không tên” – “Sông Đà cuồn cuộn nước – Bấy nhiêu cảnh, bấy nhiêu tình”.

Nhìn chung, qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của cảnh sông Đà thường đậm đà màu sắc cổ điển: “Thuyền em trôi sông Đà Cảnh ven sông ở đây vắng lặng Hình như có từ thời Lý, Trần, Lê triều đại, đoạn sông này đã được yên tĩnh như vậy.

Thuyền tôi đi qua một cánh đồng ngô đang nhú những lá ngô non đầu mùa. Nhưng không một bóng người, cỏ đồi đang đâm chồi nảy lộc. Một bầy hươu cúi đầu ăn những búp cỏ đẫm sương. Bờ sông hoang sơ như bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xưa.

Chao ôi, tôi như giật mình bởi tiếng còi tàu đầu tiên của tuyến đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Con nai con nhô cái đầu nhung của nó lên khỏi đám cỏ đẫm sương và nhìn tôi chằm chằm khi tôi lênh đênh trên một chiếc thuyền. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà hỏi tôi bằng giọng của một con vật ngoan: “Hỡi Sông Đà, có phải ông vừa nghe một tiếng còi sương không?”. Đây có thể được gọi là những dòng văn xuôi của nhà văn.

Trên cái nền của dòng sông vừa “hung bạo” vừa “lãng mạn” hiện lên hình ảnh người lái đò trên sông Đà. Trên thực tế, người đánh xe này chủ yếu xuất hiện trong cuộc vật lộn với dòng thác hung dữ, tức là ở phía hung dữ của sông Đà.

Nếu tác giả đặt ông vào một khung cảnh khác – một khung cảnh thơ mộng, trữ tình – chắc chắn ông sẽ trở thành một Trương Chi si tình trong truyện cổ tích. Nhưng ở đây, đối mặt với dòng sông hung dữ, với loài thủy quái, người lái đò nhất thiết phải trở thành người anh hùng kiên cường – một nhân vật sử thi trong sử thi vượt ghềnh, vượt thác…

Nói đến nhân vật Nguyễn Tuân không thể không ghi nhận cách tiếp cận con người của chính ông. Đó là cách tiếp cận từ góc nhìn của nghệ sĩ. Ở Nguyễn Tuân, khái niệm này có nghĩa rất rộng: nó không chỉ giới hạn ở những người làm nghệ thuật như thi sĩ, họa sĩ hay đào, kép hát… mà bao gồm bất cứ ai đã đẩy công việc họ thường làm. đến một tầm cao siêu phàm, dù công việc đó chỉ là uống trà, ăn phở, giã giò, giã cốm, thậm chí là nghề đao phủ chém đầu người…

Ở đây, người lái đò có quyền truy cập tương tự. Đúng rồi Người lái đò của Nguyễn Tuân. Lái đò như thế không còn là một nghề bình thường, mà đã chuyển sang phạm trù nghệ thuật, những nghệ sĩ – nói như tác giả – là những “tay lái tài hoa”.

Tất cả nghệ thuật lái đò của ông là phải nắm chắc “quy luật tất yếu của con nước sông Đà”. Nắm vững quy luật tức là đạt tới tự do và nghệ thuật. Tuy nhiên, đây là một quy định rất khắc nghiệt. Chỉ cần một chút sơ suất, một phút thiếu bình tĩnh, lơ đãng là phải trả giá bằng mạng sống của mình.

Để làm nổi bật tài năng của người lái đò, Nguyễn Tuân đã tạo ra một dòng thác của riêng mình như một vị tướng già bước vào một trận đồ bát quái được sắp đặt sẵn với nhiều cạm bẫy. Hết vòng này đến vòng khác, mỗi vòng đều có những “tướng đá” nham hiểm chờ đợi và quyết tâm tiêu diệt đối thủ.

Ở đây, Nguyễn Tuân lại phải vận dụng những hiểu biết về khoa học quân sự và binh pháp của mình để miêu tả: thế nào là đòn dương, đòn âm, đòn trái, đòn gối, thế phục kích, đòn trảm,… thế nào là đòn dòng đầu tiên? , dòng thứ hai, cửa sinh, cửa tử,… Chỉ là chuyện người lái đò và thác nước mà Nguyễn Tuân đã viết nên những trang văn lôi cuốn đến mức người đọc có cảm giác như được nhìn trực tiếp những thước phim cận cảnh, đặc tả. với nhiều tình huống gay cấn,…

Để viết được những trang như vậy, người ta phải có một trí tưởng tượng rất phong phú, phải có một kho ngôn từ phong phú, và phải có một vốn kiến ​​thức phong phú về nhiều lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật khác nhau. Nguyễn Tuân thường say sưa một cái gì, ông muốn quan sát và miêu tả nó từ mọi phía, từ mọi phía, cho đến tận cùng, như không muốn ai nói gì thêm. Người này chủ trương uống rượu phải say (trong chừng mực có thể), văn chương của anh ta cũng muốn thế.

Và người lái đò hiện lên đúng như mong muốn của Nguyễn Tuân: một con người tài hoa, dũng cảm đã đánh tan dòng thác hung dữ, nham hiểm, phá hết vòng vây này đến vòng vây khác “cưỡi thác”. “Bám bờm sóng”, “tăng tốc”, “lái nhanh”, “đè” con sóng này, “đè bẹp” con sóng khác, tránh cửa tử, xông thẳng cửa sinh, vượt qua cửa tử. chồng lên nhau. Đá “Bắn cửa ngoài, cửa trong, cửa trong, thuyền như mũi tên tre đâm nhanh hơi nước” để cuối cùng thoát khỏi dòng thác dữ.

Qua bài văn, đặc biệt là qua đoạn văn miêu tả cảnh người lái đò vượt thác, Nguyễn Tuân muốn nhắn nhủ với người đọc rằng: chủ nghĩa anh hùng không chỉ có ở chiến trường. Nó nằm ngay trong cuộc sống của nhân dân ta hàng ngày phải đấu tranh với thiên nhiên vì miếng cơm manh áo. Và trí tuệ tài hoa không tìm thấy ở đâu cả mà chính ở những người dân lao động bình thường ấy. Cuộc đời người lái đò vô danh bên dòng thác vắng là cả một thiên anh hùng ca, một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 20

Với bài tùy bút nổi tiếng “Người lái đò sông Đà” – rút từ tập “Tùy bút sông Đà” xuất bản năm 1960, Nguyễn Tuân muốn ca ngợi người lái đò tài hoa xây dựng trên dòng sông thiên nhiên hung bạo, ngôn ngữ họ Nguyễn. Tuấn nối nhau ca ngợi tác giả của nó là một bậc thầy điều khiển con thuyền trên sông Thị không hơn ghềnh thác. Chính từ thời kỳ này, người nghệ sĩ vốn nổi tiếng uyên bác trước cách mạng tháng Tám nay có dịp thể hiện một phong cách nghệ thuật thú vị trước một cuộc sống đổi thay. Tác phẩm miêu tả vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của sông Đà và ca ngợi người lái đò bình dị mà tuyệt vời trên sông.

Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của dân tộc, người nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tìm kiếm và tôn vinh cái đẹp. Ông đã có một vị trí quan trọng và đóng góp đáng kể cho nền văn học hiện đại: đưa văn chính luận và văn chương đạt tới trình độ nghệ thuật cao, làm phong phú ngôn ngữ văn học dân tộc, đưa văn xuôi hiện đại có một phong cách kiệt xuất, tài hoa và độc đáo.

Với tài năng tài tử sẵn có trong một tâm hồn nghệ sĩ yêu cái đẹp, một trí tuệ uyên bác và một lối viết tinh tế, độc đáo, Nguyễn Tuân đã gây ấn tượng mạnh với người đọc bằng những tác phẩm đẹp. Đối với anh, đẹp là phải đẹp tuyệt đối, hung dữ là dữ dội khác thường, đến tột cùng. Và trong chuyến đi đầy gian khổ và thú vị lên vùng Tây Bắc bao la xa xôi, ông đã tìm được cho mình một “nàng thơ” hoàn hảo: sông Đà với hai “thái cực” trái ngược nhau đầy mê hoặc: Cái đói. hung bạo, dữ dội nhưng trữ tình, đẹp đẽ.

Sự hung bạo của Đà Giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong tác phẩm. Viết về Đà Giang, ngòi bút của Nguyễn Tuân vô cùng phóng khoáng, thoải mái bởi “Người lái đò sông Đà” được viết theo lối chính luận. Anh ấy giống như một nhà quay phim dày dạn kinh nghiệm. Đôi khi ống kính của nhà văn tiếp cận sông Đà từ góc nhìn. Từ trên cao, Nguyễn Tuân nhìn thấy sông Đà dài ngoằn ngoèo như một sợi dây thừng.

Đôi khi, ống kính của nhà văn lia vào để chụp cận cảnh từng khúc sông hẹp, cắt từng khúc sông để miêu tả sự hung bạo của những khúc sông với hình ảnh “đập đá bờ sông, xây thành, mặt sông có nơi. Chỉ đến giữa trưa mới có mặt trời.” Thậm chí, có những đoạn “vách núi cắt ngang sông Đà như một cái họng. Đứng ở bờ bên này nhẹ nhàng ném hòn đá qua bờ tường bên kia.

Có lần một con hươu và một con hổ nhảy từ bờ này sang bờ kia.” Ấn tượng hơn nữa là “ngồi trong khoang thuyền qua quãng ấy, dù là mùa hè mà thấy lạnh, cảm giác như mình đang ở trong ngõ hè và nhìn lên cảnh cửa sổ ở tầng cuối của ngôi nhà. . tắt đèn. Và phong cách riêng của Nguyễn Tuân còn được thể hiện qua góc nhìn điện ảnh được sử dụng để cảm nhận, tạo cho người đọc ấn tượng về vẻ đẹp hùng vĩ mà thiên nhiên Tây Bắc đã mang lại.

Ghềnh, ghềnh còn đáng sợ ở sự khốc liệt của gió – nước: cách ghềnh Hát Loong dài hàng cây số, gió kết hợp với nước, với đá, với sóng tạo nên những xoáy nước khủng khiếp: “nước” xô đá, đá va sóng, sóng cuộn ngược gió, quanh năm gió thổi như đòi nợ luôn.” Sự khốc liệt, dữ dội của thác ghềnh được Nguyễn miêu tả thành công, sinh động như đang hiện ra trước mắt người đọc. Nghệ thuật tài tình của Tuấn với hàng loạt động từ mạnh, câu nhiều dấu phẩy liên tiếp, phép liệt kê trùng điệp tạo nên hành động “ngọt ngào” và phần nào dựng lên nhịp điệu hối hả, nhộn nhịp không chỉ như sự dữ dội, hung bạo của dòng nước mà còn như tiếng tim đập của người đi trên sông.

Như vậy rõ ràng ở chỗ đó lòng sông rất hẹp, độ dốc của thác rất cao, nhiều dòng chết, nước xoáy. Viết về dòng sông Đà hung bạo, tác giả sử dụng những câu văn rất ngắn gọn, chủ yếu dùng võ công và tri thức quân sự để miêu tả sự chuyển động của dòng nước. Ông cũng cảm nhận dòng sông bằng nhiều giác quan để kích thích trí tưởng tượng của người đọc. Vì vậy, sông Đà hiện lên là một nhân vật vừa có tính cách vừa có ngôn ngữ.

Ta cũng thấy Nguyễn Tuân tập trung miêu tả sự dữ dội của Đà giang nơi đầu nguồn bằng một liên tưởng rất đậm nét. Ở những cửa hút nước như những giếng bê tông, người ta thả xuống để chuẩn bị làm móng cho chiếc cầu: “trên những cửa hút nước ấy còn có những cánh quạ đang đung đưa”. Nước ở đó “thở và kêu như miệng cống bị nghẹt”, có lúc nghe như tiếng “đổ dầu sôi”. Sông Đà không khác gì một con thú ranh mãnh chực chờ vồ lấy những con thuyền mỏng manh. “Vì vậy, không một chiếc thuyền nào dám đi gần cái mút đó…

Chiếc bè gỗ vô ý bơi qua đây bị nước kéo xuống, có chiếc ghe bị cây chuối úp ngược kéo lên ngay rồi lặn mất tăm, chìm dưới lòng sông đến mười phút sau mới tìm thấy xác. tan chảy ở hạ lưu sông. “. Những so sánh, ví von giàu sức gợi của tác giả “như miệng cống bị tắc”, “như giếng bê tông”… sự dữ dội của sông Đà mà thót tim. Tuy nhiên, như ngồi cùng người đọc trên cùng một con thuyền qua sông sông, Nguyễn vâng dạ đưa người đọc đến với những điều ghê rợn hơn của sông Đà.

Trước hết là những âm thanh của tiếng thác gào thét hoang dã và đáng sợ: sông Đà đã trở thành một loại quái vật vừa hung ác vừa nham hiểm: “Tiếng thác nghe như than thở, rồi như van xin. .van xin, rồi như khiêu khích, giọng giễu nhại, giễu cợt, rồi lại gầm lên như tiếng trâu ngàn mộng giữa rừng trúc rừng nổ phá rừng cháy, lửa rừng gầm theo bầy đàn đốt da trâu.” Ở đoạn văn này, tác giả đã huy động nhiều biện pháp nghệ thuật như nhân cách hóa, liên tưởng, so sánh, sử dụng hàng loạt động từ mạnh khiến hình ảnh sông Đà trở nên đáng sợ như một nhân vật có tâm địa hiểm độc. với một cách thông minh, ranh mãnh.

Tiếp đến là sự hung dữ, dữ dội của đá sông Đà, là những cửa tử tử ẩn nấp mai phục gieo rắc nỗi kinh hoàng cho người lái đò. Với kiến ​​thức sâu rộng về quân sự, võ thuật, thể dục, thể thao và điện ảnh, Nguyễn Tuân đã phác họa một cuộc chiến ly kỳ như một cuốn sách lược quân sự về đánh trận trên sông Đà. Đá ở đây chia làm ba lộ và năm cửa, bốn cửa tử và chỉ một cửa sinh.

Lòng sông trắng xóa, nổi rõ những tảng đá đang xung trận, trông “khiêu thế như tướng”, “có vẻ uy nghiêm”, “có vị như muốn bốc lên”. Chức năng buộc thuyền phải khai tên trước khi đánh”. Có kẻ “lùi một chút thách thuyền lành vào”.

Dòng thác sông này thật độc đáo, thật xảo quyệt làm sao! Nó như đang mai phục rồi bất ngờ chồm dậy vồ lấy thuyền ở một khúc sông, có lúc nó lộ sơ hở nhử thuyền vào rồi bất ngờ quay lại đánh trả. Khi đánh giáp lá cà, nó đâm vào hông người lái đò, bẻ gãy cán chèo, rồi đạp trái thúc đầu gối vào bụng, tung hết đòn âm, đòn xén, rồi túm eo đòi quay. bụng người lái đò lộn ngược nơi chiến trường. Nước. Nó đập và kêu, vang cả một vùng sông hoang.

Đồng thời, khi viết về sông, Nguyễn Tuân đã bộc lộ rõ ​​mình là một nhà văn có tình yêu quê hương tha thiết bởi trong văn học nghệ thuật, viết về sông núi là viết về giang sơn mà là viết về giang sơn. là viết về Tổ Quốc. Đây là tình cảm nhất quán trong đời cầm bút của nhà văn. Trước cách mạng, tình yêu quê hương của Nguyễn Tuân được bộc lộ thầm kín qua tác phẩm “Nhớ quê hương”.

Không chỉ dừng lại ở đó, ngòi bút của Nguyễn Tuân còn tập trung miêu tả vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng của dòng sông Đà, đặc biệt là dòng sông ở hạ lưu. Những người yêu văn chương nhận ra Đà Giang hiện ra qua ngòi bút của Nguyễn Tuân nên thơ, lãng mạn, trữ tình, vô cùng duyên dáng.

Nếu như ở đoạn trên, Nguyễn Tuân miêu tả con sông Đà hung bạo với kiến ​​thức nền tảng chủ yếu là quân sự hoặc võ thuật và câu văn ngắn, nhiều động từ, nhiều trắc nghiệm thì ở đoạn này, Nguyễn Tuân là tác giả chính. chủ yếu vận dụng kiến ​​thức du lịch, kiến ​​thức lịch sử, kiến ​​thức văn học với những câu văn trải dài như nhịp chèo nhẹ nhàng của con đò em lênh đênh trên sông Đà. Nếu để ý, người yêu văn sẽ nhận thấy có mười bốn câu kết của Nguyễn Tuân kết thúc bằng một giọng điệu bằng phẳng tạo cảm giác êm dịu của sự mênh mông.

Vẻ đẹp của sông Đà mà có lẽ còn là vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Tuân mỗi người mỗi khác qua những góc nhìn khác nhau. Khi nhà văn bay qua sông Đà, từ trên cao nhìn xuống dòng sông, điều đầu tiên ông nhìn thấy là hình dáng của “một sợi dây ngoằn ngoèo”, sau đó là “từng nét sông trên đại dương đá”. “Lơ đãng mây” rất tinh tế và cô đọng hình ảnh “sông Đà chảy như áng trữ tình, tóc và rễ ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, tháng hai hoa nở, sương núi cuộn. Mèo đốt nương xuân”. .

Và lần sau, khi Nguyễn Tuân “mê mẩn nhìn mây xuân bay qua sông Đà” hay khi nhìn qua mây thu nhìn xuống mặt nước sông Đà, ông thấy dòng sông hiện lên như một vẻ đẹp dịu dàng. . Mùa xuân mềm mại, đầy sức sống với bao biến đổi diệu kỳ: “mùa xuân xanh ngọc bích”, “mùa thu sông Đà Lư chín đỏ như mặt người vì rượu”. Con sông mới đẹp và sống động biết bao, chứ không phải là con sông đen như “thực dân Pháp bóp nát sông ta đổ mực Tây vào và gọi bằng cái tên Tây láo toét”.

Và sông Đà đẹp theo một cách khác, khi Nguyễn Tuân dẫn người đọc xuyên rừng. Ông đã ba lần gọi sông Đà là từ “cố nhân”. Nguyễn Tuân ấn tượng với màu lấp lánh của mặt nước như đứa trẻ nghịch chiếc gương soi vào mắt mình rồi chạy đi. Và anh chợt phát hiện trong cái lấp lánh ấy “một thoáng nắng tháng ba, “Yên Hoa, ba vầng trăng, Dương Châu” Đôi bờ sông Đà chập chờn chuồn chuồn, bươm bướm.

Nhà văn vui mừng trước cuộc hội ngộ với dòng sông. Cảm giác ấy được ông ví như niềm vui khi thấy “nắng giòn tan sau cơn mưa rào”, “như nối lại giấc mơ đã đứt” – thứ nắng sưởi ấm tình cảm, sự gần gũi của tác giả trong cảm giác “Lặng mà ấm như gặp gỡ”. một người bạn cũ”.

Một lần nữa khi con thuyền trôi bên bờ, tác giả lại phát hiện ra dòng sông có vẻ đẹp gợi cảm hơn biết bao nhiêu. Ấn tượng đầu tiên đối với người nghệ sĩ là sự tĩnh lặng nhẹ nhàng: “Dường như từ thời Lý, thời Trần, thời Lê, dòng sông này đã vắng lặng đến thế”. Dòng sông bây giờ đâu chỉ của hiện tại, nó trôi ngược về quá khứ xa xưa với những so sánh, liên tưởng bất ngờ của tác giả: “Bờ sông hoang sơ như bờ tiền sử.

Bờ sông hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xưa. Càng đọc, ta càng có cảm giác tác giả đã hòa làm một với cỏ cây, sông nước, như say đắm say đắm không gian nơi đây để dần dần hiện ra trước ống kính vẻ đẹp sống động: đó là bắp ngô “nương” mấy mầm. lá ngô non đầu mùa”, là “cỏ núi đang ra đọt non”, là “đàn nai vùi đầu ăn búp cỏ đẫm sương đêm”. còn thấy một sức sống tươi trẻ mơn mởn đang ẩn hiện, lớn lên và chuyển động.

Huyền diệu hơn nữa là khi nhà văn dường như đã nghe thấy tiếng của con nai: “nhà thơ ngẩng đầu khỏi sương cỏ” cũng như dòng sông “lắng nghe tiếng người xuống dốc êm đềm”. Và từ hiện tại, anh mơ về tương lai nghe một “tiếng còi sương” hay “thèm một tiếng còi tàu đầu tiên khẽ giật mình” hòa vào dòng sông “lỏng lẻo như nỗi nhớ”. “.

Có thể nói, tâm hồn nhà văn như đang vỗ cánh với ước mơ sông Đà đẹp hơn trong ngày dựng nước. Càng về cuối bức tranh, dòng sông Đà càng đẹp và sinh động hơn với “cỏ sương”, rồi “đàn cá chùm xanh nhảy lên mặt sông trắng như bạc rơi” và “tiếng cá đập mặt sông”. nước xua đuổi đàn nai.biến”. Cảnh thiên nhiên như mở rộng dần ra với vẻ đẹp vừa thực vừa ảo trong cái nhìn thơ mộng của nhà văn.

Ta còn thấy hai nghệ thuật nhân hóa và so sánh được Nguyễn Tuân sử dụng rất tài tình. Ông cảm nhận dòng sông Đà và so sánh, ví von nó với mái tóc người con gái rất thơ mộng, trữ tình: “như mái tóc trữ tình”… Đây được coi là đoạn thơ đẹp nhất. trong bài tùy bút “Sông Đà”. Đọc xong “Người lái đò sông Đà”, gấp trang sách lại đã lâu nhưng những câu văn đẹp như thơ ấy vẫn còn đọng lại, ở lại mãi trong tâm hồn mỗi người yêu văn chương.

Nhà văn đã để cho những cảm xúc dâng trào thốt ra đối thoại thầm lặng với thiên nhiên, đôi bờ, con người như muốn hòa mình vào cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ thú của dòng sông. . Đến bây giờ, ngòi bút của nhà văn mới thực sự rong ruổi trong niềm đam mê khám phá cội nguồn, kể về lịch sử của dòng sông gắn liền với cuộc sống và con người Tây Bắc, đã chấp nhận những món quà hào phóng của sông Đà. .

Cảm xúc từ hiện thực của Nguyễn Tuân cũng khơi nguồn cho những ước mơ dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông ngược trở thành nguồn thủy năng dồi dào. Rõ ràng, hiện thực cuộc sống mới đã giúp Nguyễn Tuân có những linh cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng chế độ mới, đem lại sức sống mới cho dòng sông Đà.

Bằng óc quan sát nhạy bén, trí tưởng tượng phong phú và tư duy so sánh bất ngờ kết hợp với việc vận dụng tài tình tiếng Việt với các cấu trúc câu trùng điệp, sự phối hợp từ ngữ linh hoạt, sáng tạo. Sử dụng biện pháp tu từ, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh sông Đà như một biểu tượng của sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ nhưng cũng đầy thơ mộng của thiên nhiên đất nước. Hình ảnh thiên nhiên này cũng chính là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong thời kỳ mới.

Qua đó, nhà văn cũng bộc lộ tài năng của mình khi liên tục tạo ra những cái nhìn khôn lường, khó lường khiến người đọc phải ngạc nhiên, thán phục. Đó là một tài năng thiên bẩm với một nền tảng kiến ​​thức uyên bác về nghệ thuật và đời sống, sự siêng năng quan sát và tìm hiểu đối tượng cần tiếp cận và khám phá, cũng như tình cảm sâu sắc. , nồng nàn và tràn đầy sức sống, tràn đầy sức trẻ cho Tổ quốc.

Bài tùy bút “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc mà còn ngợi ca vẻ đẹp bình dị, anh hùng và tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu đất nước, niềm tự hào, thiết tha, gắn bó tha thiết với đất nước, non sông Việt Nam.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 21

Người lái đò sông Đà ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa sôi nổi, khẩn trương, để rồi cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cuộc sống mới, con người mới tràn đầy trong văn học. Không nằm ngoài xu thế chung đó, người lái đò sông Đà với hình ảnh người lái đò là một trong những hình tượng nổi bật. Nguyễn Tuân ca ngợi những người lao động giản dị, vô danh nhưng đang hàng ngày, hàng giờ đang cống hiến sức mình xây dựng đất nước.

Hình ảnh người lái đò trên sông Đà được đặt trong mối liên hệ với sông Đà, qua đó tô đậm và làm nổi bật hình ảnh người lái đò. Bởi vậy, sông Đà dữ dội, hung bạo bao nhiêu thì khi vượt qua nó, chinh phục được sức mạnh của nó, người lái đò càng thể hiện rõ sức mạnh của mình.

Người lái đò Lai Châu đã hơn trăm lần xuôi ngược sông Đà, trong đó có sáu mươi lần là lái chính. Tác giả đã tạo cho người đọc ấn tượng về người lái đò với những con số đầy áp lực và thử thách. Mỗi lần qua sông Đà ông đều phải đối mặt với tử thần, số lần ông vượt sông Đà thành công càng nhiều càng chứng tỏ tài năng và sự điêu luyện trong nghề lái đò của ông.

Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân dung nhân vật: “Tay anh khập khiễng như cái sào, chân lúc nào cũng khuỵu xuống như đang bấu vào một thân cây tưởng tượng, giọng ồm ồm như tiếng nước trong. trước ghềnh đá, mắt ông ngân ngấn nước như hằng mong về một bến xa nào đó trong sương mù, “mái đầu hoa râm… khoác lên mình thân hình gọn gàng cặp sừng mun. “. Ở ngoại hình người lái đò, chỉ có một điểm chứng tỏ tuổi tác là mái tóc hoa râm, khi lấy tay che mái tóc này, người ta lầm tưởng “tôi đang đứng trước mặt một chàng trai ngồi trên bến. chính bờ sông”. Hình dáng, dáng vẻ của người lái đò gây ấn tượng mạnh với người đọc, bởi nó trái ngược hẳn với tuổi ngoài bảy mươi, đó là dáng vẻ, dáng vẻ của một thanh niên vạm vỡ, dẻo dai, cường tráng. tráng. Sức khỏe, thể chất của người lái đò đã in đậm dấu ấn với nghề của ông. Do cả đời phải vật lộn với sông nước nên ông cần phải có một thể lực phi thường để chống chọi với những dòng thác hung dữ.

Phẩm chất nổi bật và quan trọng quyết định sự thành công của người lái xe trong nghề chèo thuyền vượt thác này là kinh nghiệm dày dặn của anh ta. Không cần bất kỳ hồ sơ hồ sơ nào, nhưng có thể nhớ chính xác dòng chảy của dòng sông. Để ca ngợi sự dũng cảm của ông Nguyễn Tuân, ông đã sử dụng một hình ảnh so sánh độc đáo và đầy chất thơ “Sông Đà đối với người lái đò như một bản anh hùng ca hùng tráng mà ông biết chấm than, chấm câu, ngắt dòng”. người lái đò cũng đã nuôi nghề của mình – một công cụ làm mưa sinh ra trong một niềm đam mê mãnh liệt trong cuộc sống.Vì đối mặt với dòng thác dữ, tức là đối mặt với cái chết, anh ta không hề sợ hãi mà cảm thấy nghề của mình thật thú vị.Đối với người lái đò, sông Đà chỉ thực sự phong phú ở những đoạn nhiều thác ghềnh, nếu phải chèo thuyền ở những đoạn bằng phẳng, anh thấy chân mình hoang dại, buồn ngủ như mèo đi trên đồng bằng.

Hình ảnh người lái đò đẹp nhất là trong trận thủy chiến với sông Đà. Nguyễn Tuân đã tạo nên một trận thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, mưu trí xảo quyệt và bên kia là người lái đò kiên cường. Mạnh mẽ nhưng đơn độc trong cuộc chiến giành giật cam go, khốc liệt này, người lái đò đã bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của mình.

Trong giai đoạn hình thành vi thạch đầu tiên, sông Đà đã thể hiện sức mạnh vật chất của mình với sự kết hợp của đá, sóng và nước. Họ vừa đánh trực diện, vừa tung đòn bắn tỉa, dồn người lái đò vào thế yếu. Mặc dù cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm nhưng cách nhìn và cách miêu tả trận thủy chiến của Nguyễn Tuân không hề hời hợt, dễ dãi, ông đã ghi lại khoảnh khắc tưởng chừng như người lái đò đã gục ngã trước những đòn roi. đòn chí mạng của sông Đà. Nhưng với sức chịu đựng phi thường, vóc dáng dẻo dai, khỏe khoắn, vẫn cố bám chặt lấy bánh lái, con thuyền vẫn âm vang hướng đi ngắn gọn, dứt khoát. Và bằng lòng dũng cảm, sức khỏe phi thường, sự bình tĩnh, người lái đò đã vượt qua những tảng đá vi mô đầu tiên. Ở mảng vi thạch thứ hai với những thay đổi bất ngờ, thay đổi khó lường trong cách sắp xếp các cổng sinh tử. Nhưng với kinh nghiệm dày dặn và sự linh hoạt, người lái đò đã nhanh chóng đưa thuyền đến đúng cửa sinh. Với sóng nước, lối đánh của nó cũng thay đổi linh hoạt, để phù hợp với các loại vi khuẩn khác nhau. Trong trận chiến vi thạch cuối cùng, tác giả miêu tả không nhiều nhưng vẫn làm nổi bật tài điều khiển thuyền của ông lão. Bằng sức khỏe và sự dẻo dai, bền bỉ, đặc biệt là lòng dũng cảm, sự chủ động và quyết tâm cao, ông đã vượt qua mọi cạm bẫy mà sông Đà giăng ra. Cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên hung dữ và một bên là ông già cô đơn với vũ khí duy nhất là mái chèo, nhưng chiến thắng đã thuộc về con người.

Nếu như trận chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh trên mặt nước sông Đà thì sau trận chiến, cách ứng xử của ông lão với chiến công và chiến thắng lại thể hiện vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, cốt cách con người. Chiến thắng dòng sông Đà bảy mươi ba thác ghềnh là điều không phải ai cũng làm được, cho dù đây là một chiến công phi thường. Nhưng với ông lão và tất cả công nhân ở đây thì đó là chuyện hết sức bình thường. Nhưng chính bằng sự đơn giản hóa, bình thường hóa những điều phi thường, tâm hồn và nhân cách của những người lao động nơi đây càng trở nên đáng quý và đáng quý hơn.

Hình ảnh người lái đò mang đậm dấu ấn phong cách của Nguyễn Tuân. Bởi anh là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề lên tầm nghệ thuật. Nhưng hình ảnh ông đồ đã cho thấy rõ sự thay đổi trong tư tưởng của Nguyễn Tuân khi những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh. . Đây là cách Nguyễn Tuân ngợi ca, tôn vinh những người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 22

Cái nhìn và điểm nhìn nghệ thuật trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là một trong những phương diện nổi bật. Trong cuốn hồi ký sắc sảo và ấn tượng này, Nguyễn Tuân đã trình bày cách nhìn của mình về đối tượng được phản ánh – người lái đò sông Đà – từ điểm nhìn cái đẹp, và con sông Đà từ những quy chiếu tổng hợp thẩm mỹ. về địa lý, lịch sử và văn hóa.

Về dòng sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện hai điểm nhìn chính: hùng vĩ, hung bạo và thơ mộng, trữ tình. Hai điểm nhìn này bổ sung cho nhau để tạo nên một hình ảnh sông Đà độc đáo và thú vị. Nếu thiếu một trong hai điểm nhìn thì hình ảnh dòng sông không còn giá trị, mất đi sức hấp dẫn, quyến rũ: Không có điểm nhìn hùng vĩ, hung bạo mà chỉ trữ tình, dòng sông thiếu cá tính. cá tính và chỉ là dòng sông bình thường; Nếu dòng sông thiếu đi điểm nhìn thơ mộng, trữ tình thì dòng sông chỉ mang tính địa lý, người ta sẽ e ngại, xa lánh. Vì vậy, hai điểm nhìn này tương tác với nhau để vừa tạo nên tính chân thực, vừa tạo nên sức hấp dẫn riêng, độc đáo trong nhãn quan nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

Ở cả hai điểm nhìn, sắc thái của đối tượng được miêu tả, phê bình, đánh giá luôn phong phú, đa dạng và linh hoạt trong cách sử dụng thơ từ, phép so sánh, đối chiếu mới lạ của nhà văn. Ví dụ, miêu tả một dòng sông ở khúc hẹp thì như cổ họng bị đá bờ sông bóp nát, khúc rộng thì muôn dặm gió lộng; có lúc mặt thác với dòng nước như hổ báo, có lúc dòng nước xoáy hút mọi vật xuống đáy sâu…

Điểm nhìn ấy không chỉ dừng lại ở hình dáng con sông hay bờ sông có khúc hoang vu như một bờ tiền sử mà còn ở âm thanh của dòng sông cũng đa dạng và giàu chất thơ: than thở, khêu gợi, giễu cợt, bất chợt. gầm, rú, ùng ục, thở và kêu như cửa cống bị nghẹt… Điểm nhìn trữ tình trước hết được thể hiện ở sự ví von mô phỏng mà sinh động dòng sông như một sợi tóc. trữ tình và huyền ảo với mái tóc, sợi tóc ẩn hiện trong mây.

Mặt khác, khi không gian của điểm nhìn chuyển sang dòng sông êm ả, thanh bình như đoạn chảy qua chợ Bờ, nước sông có lúc xanh như ngọc bích, có lúc đỏ au; Ấn tượng về dòng sông như của một cố nhân, có lúc huyền ảo sương khói như cảnh trong bài thơ Đường luật của Lý Bạch. Thiên nhiên, cây cỏ cũng gợi tình, lãng mạn: bãi ngô nhú vài lá bắp non đầu mùa, cỏ đồi núi đang ra đọt non, đàn hươu cúi xuống ăn những búp cỏ đẫm sương đêm. .

Về người lái đò trên sông Đà, nhãn quan nghệ thuật của Nguyễn Tuân thể hiện ở ngoại hình, ở lòng dũng cảm, ở tài lái đò trên sông, ở tình yêu lao động và tất cả những điều đó toát lên vẻ đẹp của ông. Đẹp ở cách miêu tả và biểu cảm của tác giả. Trong cái nhìn của bài văn nghệ thuật và sáng tạo này, người lái đò sông Đà hiện lên một cách tự nhiên và thuyết phục từ sự tổng hòa thẩm mỹ của mọi đặc điểm và giá trị. Sự tương tác của hình tượng người lái đò với sông Đà trong điểm nhìn của nhà văn tạo nên những giá trị mới cho cả hai. Từ đó, tạo nên những ấn tượng đặc sắc, sâu sắc về tình yêu đất nước, con người Việt Nam qua bài văn đẹp như thơ.

Giữa hai đối tượng được miêu tả là con sông Đà và người lái đò sông Đà luôn có mối quan hệ khăng khít, mật thiết trong cách nhìn và cách thể hiện của tác giả. Vẻ đẹp, sức hấp dẫn của mỗi đối tượng miêu tả là do sự tác động qua lại giữa chúng, từ đó tạo nên hiệu quả thẩm mỹ của bài văn tuyệt tác này. Đối với người lái đò, sông Đà vừa là đối tượng của một cuộc chiến cần chinh phục, vừa phải chinh phục để mưu sinh, đôi khi khó khăn đến mức đôi khi nhìn bộ mặt và trái tim của kẻ thù số một (…) xem như một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành lấy sự sống từ tay nó.

Nhưng cũng chính với đặc tính hung bạo của sông Đà, người lái đò có điều kiện để thử thách, vượt qua và thể hiện phẩm chất của một chiến binh, nghệ sĩ: Người lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn nắm chắc cần lái, mặt méo xệch như sóng đánh tới đánh lui, đánh vào người tỉa, trúng chỗ hiểm. Tăng thêm tiếng nước hỗn độn, đá rơi. Nhưng trên con đò, anh vẫn nghe rõ câu mệnh lệnh ngắn gọn, tỉnh táo của người lái đò. Vì vậy, tôi đã hoàn thành vòng đầu tiên của sự hình thành microlithic…

Người lái đò dũng cảm và mưu trí trong mọi tình huống của vòng đá, bởi ông đã nắm vững binh pháp của thần sông, thần đá. Vì thế, có lúc cưỡi thác sông Đà, có lúc nắm bờm sóng vào đúng luồng, nắm dây cương.. và linh hoạt ứng phó một cách dũng cảm, tài tình: Đối với thủy thủ sông Đà, ông lái đò nhớ mặt mấy anh này, mấy kẻ tránh thì bơi, kẻ khác thì đè lên, xẻ đôi để mở đường… Và trong cuộc chiến đấu với người lái đò như thế, vẻ đẹp và sức hấp dẫn trong tính cách hung bạo của sông Đà cũng có điều kiện để bộc lộ. Tức là dòng sông không chỉ là một hiện tượng tự nhiên mà là một hình tượng nghệ thuật, một nhân vật có thực, có hồn, có tư chất, có cá tính.

Như vậy, cấu trúc thơ của hình tượng người lái đò sông Đà có sự tác động qua lại giữa các đối tượng thẩm mỹ. Chính mối quan hệ giữa các yếu tố trong một hệ thống nghệ thuật thống nhất đã tạo nên tính tư tưởng và tính thẩm mỹ, góp phần không nhỏ tạo nên sức hấp dẫn độc đáo của hình tượng giàu chất thơ, phiêu du. lãng mạn nhưng cũng rất hiện thực, luôn thấm đượm tình yêu thiên nhiên, con người của nhà văn Nguyễn Tuân.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 23

Nguyễn Tuân được biết đến là một nhà văn tài hoa, uyên bác, suốt đời say mê đi tìm cái đẹp của cuộc sống. Ông có sở trường về thể loại tiểu luận. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là bài tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm như khắc họa vẻ đẹp đa dạng của sông Đà vừa hung bạo, vừa trữ tình, đồng thời ca ngợi người lái đò bình dị mà tuyệt vời trên sông.

Bài “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ký họa. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của những chuyến đi thực tế Tây Bắc của nhà văn trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đã đi đến nhiều vùng đất khác nhau, sống với những người lính, dân công. nhân dân và các dân tộc thiểu số. Thực tế xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận.

Có thể nói, ngoài phong cảnh Tây Bắc hùng vĩ, hùng vĩ, thơ mộng đến kì diệu, Nguyễn Tuân còn phát hiện ra những điểm đáng quý trong tâm hồn con người mà ông gọi là “vàng thứ mười đã thử lửa, vàng thứ mười đã thử lửa”. lửa.của tâm hồn Tây Bắc.”

Qua tác phẩm đặc sắc “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với tấm lòng hào hoa của mình đã khắc họa nên nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình tượng con sông Đà hung bạo nhưng dữ dội. đôi khi rất trữ tình. Đồng thời, nhà văn dường như cũng phát hiện và ca ngợi tính nghệ thuật, tài năng và trí tuệ của người lao động mới là cục vàng mười tuổi đã qua thử thách của đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua hình ảnh người lao động. người lái đò trên sông Đà. Từ đó, nhà văn ca ngợi sông Đà vừa dữ dội nhưng cũng vừa trữ tình, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, con người Tây Bắc cần cù, dũng cảm, lắm tài mà cũng lắm tài. .

Người lái đò dường như hiện lên trước hết với tư cách là một người lao động lão luyện, có nhiều kinh nghiệm chèo đò. Hơn thế nữa là lòng can đảm, dũng cảm, sự mưu trí, nhanh nhạy, dứt khoát. Nguyễn Tuân thật tài tình khi đặt nhân vật của mình ngay vào hoàn cảnh khốc liệt mà tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ. Và nếu không phải với cuộc sống của riêng bạn. Có lẽ nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian khổ của người lái đò trên chiến trường sông Đà, của một trận thủy chiến ở mặt trận sông Đà. Đó cũng là dòng thác nguy hiểm đến tính mạng, diễn ra nhiều lần, nhiều lần như một trận chiến mà dường như đối thủ đã lộ rõ ​​bộ mặt và dã tâm của kẻ thù số một.

Dường như “Đá ở đây ngàn năm mai phục dưới sông, hình như mỗi lần có thuyền xuất hiện nơi vắng vẻ mà ồn ào này”, có thể thấy mỗi khi thuyền nhô ra khúc sông, Ngay lập tức một số người trong số họ nhảy lên để lấy thuyền. Có thể nói, Nguyễn Tuân đã từng rất đắt giá trong việc sử dụng ngôn ngữ của mình qua việc miêu tả những viên đá. Anh miêu tả mặt từng viên đá có vẻ chênh vênh, từng viên đá nhăn nheo, méo mó hơn cả mặt nước nơi đây…”. Sông Đà đã giao việc cho từng đảo. Và khi tôi đến đây, tôi thấy rằng đây là nó đang trưng bày mảng đá trên sông. Đá chia làm ba hàng chắn ngang sông đòi ăn thuyền cho chết. Và thực tế là một con thuyền đơn độc không còn biết lùi về đâu để tránh một cuộc giao tranh với những tảng đá dàn trận phía trước.

Dường như trong trận đá ấy, người lái đò đã dùng hai tay giữ mái chèo để không bị sóng chiến hất văng ra ngoài và lao thẳng vào người. Khi sông Đà tung ra đòn hiểm nhất là dùng sức nước bám vào thuyền như một đô vật túm lấy eo ông để lật mình giữa dòng nước ầm ầm, ông lão vẫn không hề nao núng mà dường như vẫn bất động. còn lại bình tĩnh, đầy xảo quyệt. Lúc này, người lái đò bỗng như một người chỉ huy, đưa con thuyền vượt qua thác ghềnh. Và ngay cả khi người lái đò bị thương vẫn cố nén vết thương, chân vẫn kẹp chặt vào cần lái, mặt méo xệch như sóng xô, rồi dùng đòn tỉa, đòn âm vào chỗ hiểm. . lại. Nhưng khi người lái đò “Phá trận vi thạch thứ nhất”, không kể mệt mỏi, người lái đò lập tức “phá vòng vây thứ hai”. Lão lái đò dường như cũng đã nắm chắc mưu kế của thần sông, thần đá. Và cho đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải và bên trái đều là kênh chết, nhưng có vẻ lúc này người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thuyền thẳng, chọc thủng cửa giữa. Con thuyền vút qua cổng đá đóng mở. Đẩy cửa ngoài, rồi cửa trong, rồi lại cửa trong, con thuyền như một mũi tên tre nhanh chóng xuyên qua hơi nước, vừa đâm vừa tự động bẻ lái. Và dường như trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ còn một tay cầm chèo, con đò không còn đường lùi và dòng sông như mang trong mình sức mạnh siêu nhiên hung dữ của loài thủy quái. Tuy nhiên, có thể nói cuối cùng ông lái đò vẫn chiến thắng, khiến các tướng đá tái mặt vì phải thua một ông thuyền nhỏ.

Người lái đò được thể hiện trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm việc lặng lẽ và giản dị, nhờ công việc của mình mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên vĩ đại và tráng lệ, và người lái đò trở thành một vĩ nhân. TRÁCH NHIỆM CỦA CON NGƯỜI. Những người lao động chân chính đã chinh phục được thiên nhiên nhờ ý chí kiên cường, lòng kiên trì và quyết tâm chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố tạo nên phẩm chất vàng mười của người dân Tây Bắc.

Có thể nhận thấy, nổi bật và độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Dường như khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không chỉ nhà thơ, nhà văn mà cả những người không dính dáng nhiều đến nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu tác phẩm của họ dường như đã đạt đến trình độ tinh tế và cao siêu. Trong Người lái đò sông Đà, tác giả Nguyễn Tuân đã xây dựng hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là người lái đò tài hoa. Nghệ thuật đặc sắc được sử dụng ở đây là hiểu và nắm vững quy luật tất yếu của sông Đà, và vì có làm chủ nên mới có tự do.

Luật trên sông Đà là luật hà khắc. Chỉ cần một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, sơ suất sẽ phải trả giá bằng tính mạng. Nhưng ngay cả những đoạn sông Đà không có thác cũng dễ chìm vào giấc ngủ ngay. Tóm lại, ở đâu cũng nguy hiểm. Lão lái đò dường như thuộc sông, thuộc quy luật của những tảng đá trong con đường hiểm trở này và nắm chắc mưu kế của thần sông, thần đá. Có lẽ vì thế mà trong trận chiến, ông sáng suốt, bình tĩnh như một chỉ huy tài ba. Dường như tất cả các giác quan của ông lão đều phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Ra trận rồi, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: thác sóng tan trong thương nhớ. Dòng sông êm đềm trở lại. Và đêm đó, nhà thuyền đốt lửa trong hang, nướng ống cơm và nói chuyện về cá Anh Vũ, cá chùm xanh, hang động vào mùa khô với những tiếng ầm ĩ như mìn nổ tràn bờ. ruộng lúa. Cũng như chưa ai bàn đến một lời nào về chiến công vừa rồi trên đất nước toàn những tướng lĩnh bá đạo. Cũng như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén một tác phẩm để đời, không mấy ai tự khen mình đã cố gắng, và chính nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nhận xét rằng “Cuộc đời họ đang từng ngày đấu tranh với dòng sông Đà hung dữ, giành lấy sự sống từ thác nước mỗi ngày, vì vậy nó không có gì ly kỳ và đáng nhớ.” Đó là lý do tại sao họ nghĩ như vậy khi ngừng chèo. Có lẽ người lái đò anh hùng thì dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa thì chỉ có Nguyễn Tuân.

Bài tùy bút Người lái đò sông Đà cũng là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm đặc sắc này không chỉ ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc mà dường như còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng và tài hoa của những người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân đã thể hiện được tình yêu đất nước, niềm tự hào và thiết tha, sự gắn bó tha thiết của mình với làng quê Việt Nam.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 24

Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam thế kỉ XX. Trước Cách mạng tháng Tám, tên tuổi ông được biết đến qua các tác phẩm Vang bóng một thời, Một chuyến đi,… Sau Cách mạng tháng Tám, ông chuyển sang thể loại chính luận và thành công nhất ở thể loại này. Đây là bài văn “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc không chỉ ở hình ảnh con sông Đà “dữ dội, trữ tình” mà còn bởi hình ảnh người lái đò khệnh khạng trên dòng thác dữ dội.

Người lái đò sông Đà là bài tùy bút xuất sắc đăng trong tập Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân. Đó là kết quả của nhiều dịp đi và viết về Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp của ông. Tác phẩm là một bài tùy bút trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Người nghệ sĩ tài hoa đã dùng ngòi bút của mình để khám phá và ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người lao động Việt Nam.

Mở đầu bài văn, Nguyễn Tuân đã trích dẫn hai câu thơ làm tựa đề: “Đẹp thay tiếng hát trên sông” và “Ta thủy giai Đông Tàu/Đà giang độc Bắc Lưu”. Như vậy, nhà văn đã ngầm thông báo cho người đọc về hai đặc điểm của dòng sông với những nét tính cách trái ngược nhau: dữ dội, hiểm độc – duyên dáng, nên thơ. Trong con mắt của kẻ lãng du luôn khát cái lạ, thiên nhiên sông Đà như một bản thể phức hợp. Thoạt nhìn ta thấy được sự hùng vĩ, dữ dội và hung ác của sông Đà.

Theo Nguyễn Tuân, có lẽ đây là dòng sông nhiều thác ghềnh, cực kỳ nguy hiểm cho con người. Mùa lũ về thì “ác như dì ghẻ”, hung dữ như yêu quái, trở thành “kẻ thù số một” của con người. Sự hùng vĩ của sông Đà được thể hiện trước hết ở cảnh những bãi đá bên bờ sông dựng đứng thành vách. Những vách đá cheo leo giữa lòng sông hẹp. Sự nhỏ hẹp của lòng sông được nhà văn xoay để nhìn mọi góc độ: “buổi trưa chỉ có nắng trên mặt sông”, “lòng sông Đà như một cái họng”,… thật thú vị. Làm sao một sự hấp dẫn bình thường lại có thể có một phép so sánh vừa chính xác, vừa tinh tế, vừa phong phú, lại vừa bất ngờ và lạ lùng như vậy. Nguyễn Tuân luôn lục lọi bằng kho tàng ngôn ngữ muôn màu muôn vẻ để đem đến cho người đọc không chỉ những trải nghiệm thị giác, cảm quan mà cả những tưởng tượng thú vị. Sự ghê rợn, dữ dội và hiểm độc của sông Đà tiếp tục được Nguyễn Tuân miêu tả qua các đoạn ở ghềnh Hát Loong: nước xô, đá xô sóng, sóng xô và gió cuộn,… rồi sóng hút. nước xoáy “Đáy nước xoáy hút như cánh quạ… sâu như tiếng đổ bê tông”, “Tiếng nước thở và kêu ùng ục như cống bị nghẹt”. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân tiếp tục đi tìm một cảnh gây ấn tượng mạnh với người đọc. Đó là cảnh thác nước: “Tiếng thác nghe như ở gần mà lại gào thét liên hồi… nghe như than thở, rồi lại như van xin… Rồi chợt gầm lên như tiếng đàn của cả ngàn con trâu mộng giữa rừng, Rừng trúc rừng trúc bốc cháy phá rừng cháy, rừng lửa gầm đàn trâu cháy,…”. Nếu như ở đoạn trên, nhà văn sử dụng ngôn ngữ điện ảnh để miêu tả sự rùng rợn và phấn khích của những vòng xoáy, thì ở đoạn này, chúng ta nghe thấy âm thanh của một bản giao hưởng, mở đầu bằng những tiếng thì thầm khe khẽ. của dòng thác thì nghe như than vãn, van xin, rồi giễu cợt, khiêu khích. Rồi bất ngờ phóng hết tốc lực, bùng lên những tiếng gào hỗn độn của đủ loại âm thanh núi rừng, thiên nhiên đang ở đỉnh cao của sự phấn khích, hoang dại và điên cuồng bởi những tiếng đập thình thịch. đâm vào đá. Kể hết sự dữ dội, hiểm độc của dòng sông, Nguyễn Tuân tiếp tục đưa người đọc đến khúc quanh của dòng sông và chân trời đá: “đá đây ngàn năm mai phục dưới lòng sông”. Họ phóng túng, đứng, ngồi, nằm theo ý thích của mình. Hình như từ ngàn xưa, non sông đã cho họ cái nghề bày binh bố trận, có tiền trung, trung hậu, có cửa sinh tử, biết lừa, biết đánh, biết gian. đá, biết hỏi và đặt câu hỏi. biết thử thách. Phối hợp với tảng đá là thác nước, chúng hét to như gia cố cho tảng đá, có khi liều mạng xông vào “bẻ cán chèo, đạp trái, thúc gối, túm eo, lật người đánh đàn”. … “. Nguyễn Tuân đã dùng ngôn ngữ của nhiều ngành khác nhau: võ thuật, thể thao, quân sự để chấn hưng cả một non sông. Nhà văn xoay cái nhìn của mình theo nhiều chiều, nhiều phía: cao – rộng, bề ngoài – thâm tâm, bới móc tận cùng bản chất hung dữ, hiểm độc để chứng minh sông Đà – con thủy quái – số một. kẻ thù của con người.

Sông Đà làm nên một thực thể nên bên cạnh vẻ hùng vĩ, dữ dội, sông Đà còn hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình.

Viết về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà, Nguyễn Tuân không bằng lòng với những kiến ​​thức hời hợt, quen thuộc mà luôn dồn hết tâm huyết, công sức tìm tòi để mang đến cho người đọc những hiểu biết độc đáo về văn hóa. phong phú, toàn diện về một dòng sông, một vùng đất giàu giá trị vàng với những trang viết đong đầy cảm xúc. Đây là đoạn không còn sự hiện diện của thác, ghềnh, đá, dòng sông Đà ở đoạn này hiền hòa thơ mộng. Ngôn từ của Nguyễn Tuân bỗng chuyển sang một giọng da diết, tha thiết, giàu chất thơ, nhạc, họa. Người đọc có cảm giác như đang cùng Nguyễn Tuân lênh đênh trên một chiếc máy bay, rà từng “nét sông trên biển đá, lững lờ chân mây”, mới thấy đất nước bao la biết bao. Để từ đó, kẻ lãng du vẽ nên một bức tranh thủy mặc chỉ trong một câu: “Dòng sông Đà chảy dài như áng tóc trữ tình, đầu em chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc hoa ban nở, hoa gạo tháng hai và những hương khói nương rẫy mùa xuân của Mèo”. Không có gì so sánh đẹp hơn dòng chảy của sông Đà với mái tóc của một người phụ nữ đẹp.

Trữ tình và đáng yêu hơn là màu sông Đà. Nguyễn Tuân cũng nhận thấy sắc màu khác nhau của sông Đà mỗi mùa lại mang một vẻ đẹp riêng “xuân xanh, xanh ngọc bích”, qua ánh nắng thu “sông Đà Lư chín đỏ như da mặt người nghèo khổ, xơ xác”. rượu.” Cách nhân hoá, so sánh này cho thấy tài năng của sĩ phu khi miêu tả màu nước sông Đà.

Là nhà văn suốt đời đi tìm, khám phá cái đẹp, Nguyễn Tuân và cộng sự đã không quản ngại gian khổ vượt đèo, lội suối lên vùng Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc để tìm cái “sự vật”. vàng mười” của sông núi Tây Bắc.

Trên sông Đà, người lái đò xuôi ngược trăm lần. Dòng sông đối với ông “như một thiên anh hùng ca mà ông biết dấu chấm than, dấu chấm câu và những đoạn xuôi dòng”. Anh am hiểu quy luật của dòng nước, ghi nhớ trong trí nhớ từng dòng thác, dòng xoáy, dòng thiện, dòng dữ, dòng chết, dòng sống, thông minh, dũng cảm, hoạt bát và tự tin như một dũng tướng trong trận bát trận. chết tiệt. Vẻ đẹp và ngoại hình của người lái đò được Nguyễn Tuân miêu tả đã ngoài bảy mươi tuổi, tóc bạc phơ, thân hình như một pho tượng tạc bằng đá hoa cương. Da sáng lên với chất sừng mun. Cánh tay trẻ lực lưỡng đang “đâm như sào”. Đôi mắt sắc sảo với tầm nhìn xa trông rộng. Trên ngực ông nổi lên một số vết thương trên “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân trân trọng gọi là “Huân chương Lao động hạng nhất”. Người lái đò là một “tay lái tài ba” đã vượt qua vòng vây của trận đá, quyết đấu sinh tử với “đá dưới nước”. Anh là một nhân vật vô danh bởi anh đại diện cho biết bao con người trên khắp đất nước Việt Nam đang ngày đêm âm thầm cần cù lao động, không ngừng đối mặt với thiên tai, địch họa để giành lấy sự sống và giữ gìn sự sống. bảo vệ tổ quốc. Chính vì thế hình ảnh người lái đò trở nên đồ sộ, kì vĩ hơn.

Vẻ đẹp của người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa trong ba trận thuỷ chiến. Cuộc chiến giữa một bên là thuyền én và một bên là con người nhỏ bé, mỏng manh đơn độc và một bên là gần trăm thác nước lớn nhỏ như một con quái vật khổng lồ với trái tim độc ác đại diện cho sức mạnh. sự kỳ vĩ của thiên nhiên. Cuộc chiến diễn ra không cân sức, nhưng hình ảnh người lái đò vẫn tay cầm mái chèo, chân kẹp cần lái, hiên ngang, ngoan cường, bình tĩnh xử lý tình huống một cách dũng cảm, mưu trí, mưu lược, dũng cảm. Chiến đấu chống lại những chiếc nanh ác và giành chiến thắng. Để miêu tả cuộc giao tranh quyết liệt, khốc liệt giữa người lái đò và con sông Đà hung bạo, Nguyễn Tuân đã vận dụng sự uyên bác về địa lý, lịch sử, ngôn ngữ học trong các lĩnh vực thể thao, võ thuật, quân sự kết hợp với thủ pháp cá nhân hóa, liên tưởng khôn lường và bất ngờ để cống hiến cho người đọc những trang văn. của những bài văn, những bức tranh thủy chiến, những cảnh sinh động đầy tính nghệ thuật của ngôn từ. Tài năng, thú vị và hấp dẫn.

Trận sông Đà đầu tiên hiện ra một kẻ thù nham hiểm, xảo quyệt, đó chính là chân trời đá. Những tảng đá ở thác này phục kích hàng ngàn năm, chúng ngang ngạnh đứng, nằm, ngồi tùy theo sở thích, biết bày binh bố trận như binh pháp Tôn Tử. Gồm 5 cửa trận, trong đó có 4 cửa tử, 1 cửa sinh chia làm ba tuyến: tiến, trung, hậu… đòi ăn thuyền độc mộc mà lái còn nhớ mặt từng con. Mảng đá khi xếp xong có sự kết hợp giữa thác nước và sóng thác. Nước vang dội làm thanh cho đá. Đá hùng vĩ, thách thức phía trước và phía sau. Sóng nước như tên lính liều lĩnh đạp trái, đạp phải, thúc gối vào bụng, vào mạn thuyền, như đòi giật lấy thắt lưng người hoa tiêu và lật mình giữa dòng nước giông tố, gào thét. đòn nguy hiểm nhất. Nhưng người lái đò vẫn giữ vững mái chèo của mình để không bị hất tung ra khỏi những con sóng. Những đợt sóng đánh tới tấp, những cú bắn tỉa, những cú đánh âm thanh vô cùng nguy hiểm nhưng người lái đò đã cố nén vết thương, kiên trì vượt qua trận hỗn chiến.

Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để truyền linh hồn sống vào từng khối đá, biến chúng thành một màn pha lê đá quyết liệt trong cuộc chiến với con người. Miêu tả thiên nhiên dữ dội, hiểm trở chẳng qua là để tôn vinh sức mạnh, lòng dũng cảm của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên. Đoạn văn rất đặc sắc, đem đến cho người đọc những cảm xúc thẩm mĩ mới, sự xao xuyến và tự hào như chính mình là người trong cuộc.

Để làm nổi bật hình ảnh người lái đò tài hoa, dũng cảm, Nguyễn Tuân tiếp tục miêu tả tiểu phẩm thứ hai. Dưới ngòi bút tài hoa và phóng khoáng, sông Đà tiếp tục được nêu lên là “kẻ thù số một” của con người với dã tâm thậm chí còn độc ác và xảo quyệt hơn. Đoạn sông này có nhiều cửa tử và chỉ có một cửa sinh. Dòng thác hổ dữ, hổ dữ hy sinh trên sông đá. Người lái đò và người lái đò cưỡi trên sông như cưỡi trên lưng hổ. Anh nắm chắc bờm sóng, nắm chắc dòng nước, mau vào cửa sinh, phóng nhanh. Được bốn năm năm, các thuyền trưởng cửa nước ùa ra, định ôm thuyền vào cửa tử. Dòng sông như một con thú dữ, đòi ăn thịt thuyền cho đến chết. Nó là hiện thân của các lực lượng tự nhiên chưa được chế ngự. Người lái đò nắm chắc quy luật của thần sông, thần đá, không hề nao núng, luôn tỉnh táo, sáng tạo, thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời. Mặc cho Đà Giang hung dữ, hiểm độc, chàng vẫn bám lấy nước, giữ cương như bám lấy sự sống. Nguyễn Tuân thật tài hoa trong cách dùng từ, ông không dùng “cầm lái” mà “cầm cương” khiến dòng sông như hổ, thác như báo, thuyền như chiến mã mà ông phóng như bay. như anh ấy đã làm. Người dũng sĩ điều khiển chiến mã tung hoành trận sông Đà. Để giành được chiến thắng, người lái đò không chỉ dũng cảm mà còn phải khôn khéo trong cách đối phó. Qua nghệ thuật ngôn từ của Nguyễn Tuân, hình ảnh con người hiện lên thật oanh liệt, hào hùng.

Tiểu phẩm thứ ba kịch tính được đẩy lên cao trào. Ngòi bút của Nguyễn Tuân trở nên bay bổng, linh hoạt bởi nhiều liên tưởng thú vị đan xen. Trong trận địa vi thạch thứ ba này, thác nước càng lúc càng điên cuồng, cuồng bạo hơn, cửa ra vào ít hơn, trái phải đều là cửa tử. Con suối sống giữa những hòn đá phía sau nên tính mạng người lái đò càng mong manh. Ngay giữa cửa ải của sự sống và cái chết, người đọc mới thấy được tài năng tuyệt vời khi chèo thuyền vượt thác. Hắn cứ thế chạy thẳng, đột phá, vọt qua cổng đá rồi đắc thắng lao đi. Dòng thác dữ không ngăn được thuyền nhưng cuối cùng vẫn là người chiến thắng. Thần lực của thiên nhiên cũng phải cúi đầu. Con người vượt ghềnh thác, xé nát hết lớp này đến lớp khác của các hạt vi mô, thể hiện sức mạnh phi thường trong quá trình chế ngự sự hung dữ của dòng sông. Ngôn ngữ miêu tả nhanh, ngắn gọn, nhẹ nhàng như chính người lái đò lướt trên mặt băng khiến người đọc khâm phục những con người lao động bình dị nhưng rất đỗi phi thường.

Tham Khảo Thêm:  giải vở bài tập sinh học 7

Dòng sông Đà dữ dội, người lái đò chỉ coi nó như chiếc lá mùa thu. Anh đến với nó như đến với một người nhiều tật nhưng đằm thắm như một ông già. Anh ấy hiểu nó, lắng nghe tiếng vang của nó, trung thành với nó. Qua mỗi cuộc chinh phạt, mọi hiểm nguy đều tan biến: “Sóng rì rào tan trong ký ức”. Họ đốt lửa nướng cơm lam, bàn tán về cá Anh Vũ, cá dầm như không có chuyện gì xảy ra, dù hàng ngày phải vật lộn, đối mặt với dòng thác dữ. Đó là vẻ đẹp của tâm hồn nghệ sĩ.

Có thể nói bài tùy bút Người lái đò sông Đà là một tác phẩm mang phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Độc đáo, tài hoa, uyên bác trong việc tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều khía cạnh, thẩm mỹ và văn hóa. Dòng sông được tạo hóa miêu tả như một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, người lái đò được miêu tả với nét tài hoa, tài hoa và đầy tính nghệ thuật. Tác giả sử dụng ngôn ngữ điêu luyện của nhiều nghệ thuật khác nhau như hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc v.v… để huy động kiến ​​thức trên nhiều lĩnh vực: địa lý, lịch sử, thể thao, võ thuật, v.v…Tất cả đã được tổng hợp lại, nhìn chung , làm nổi bật vẻ đẹp của một dòng sông Đà hùng vĩ, dữ dội và thơ mộng cùng với vẻ đẹp của hình tượng người lao động hết sức bình dị mà hào hùng, vĩ đại.

Khép lại bài tùy bút về sông Đà, Nguyễn Tuân đã đem đến cho người đọc một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ của dòng sông nhưng cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình. Hiện lên trong bức tranh ấy là hình ảnh người lao động tài năng, thông minh của thời đại mới – thời đại Hồ Chí Minh.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 25

Tây Bắc? Tây Bắc có gì độc đáo Khi trái tim tôi hóa thành những con tàu

Tây Bắc đã trở thành miền đất hứa của thơ ca và nghệ thuật muôn đời. Đặc biệt trong những năm miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiều nhà thơ, nhà văn đã về đây tìm nguồn cảm hứng mới, trong đó có Nguyễn Tuân. Ông đã thăng hoa trên chính mảnh đất này với tập kí Sông Đà với hồn bút chì Người lái đò Sông Đà. Đoạn thơ được dệt nên bằng ngôn ngữ điêu luyện, Các đoạn miêu tả đèo cao, vực sâu, thác dữ, kết hợp với cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, trữ tình. Và lấp lánh giữa vẻ đẹp ấy là hình ảnh sông Đà dữ dội, dữ dội nhưng hùng vĩ, đầy cá tính.

Vẻ đẹp của sông Đà trước hết được thể hiện ở dòng chảy của sông Đà. Như tiêu đề ngay từ đầu của bài văn tế “Chúng tôi lớp người thủy chung, Đông Tầu – Đà Giang độc Bắc Lưu”. Các sông đều chảy về hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Chính đặc điểm thú vị này đã tạo nên một cá tính rất riêng, rất ngỗ nghịch và độc đáo cho Đà Giang.

Sự hùng vĩ, dữ dội của sông Đà còn thể hiện ở những vách đá hiểm trở, đáng sợ đối với con người. Tác giả miêu tả cụ thể, sinh động với nhiều chi tiết đặc sắc những vách đá hẹp và cao chót vót “xây tường, trưa nắng mới ló” gợi cảm giác u ám, lạnh lẽo “đã vào mùa thì cũng se lạnh”.

Qua cách miêu tả của tác giả, người đọc được truyền tải một cảm giác chân thực. Đến mức họ đang đứng ngay trước dòng sông Đà, dường như chính họ cũng cảm thấy sờn lòng, sợ hãi khi phải vượt qua quãng đường ấy: “Thành đá cheo leo chắn ngang tim Sông Đà” và “cảm giác như Tôi đứng trong ngõ nhìn lên khung cửa sổ.. đèn điện vừa tắt”. vách đá Sông Đà.

Dòng sông Đà với vẻ đẹp hùng vĩ được gợi lên qua những miêu tả trong dãy ghềnh Hát Loong dài hàng cây số. Câu văn dài, nhiều về liên kết, đặc biệt nhịp thơ nhanh, mạnh kết hợp với động từ mạnh, lá Từ láy, Nghệ thuật điệp khúc “xô”, “lăn”, “gù ghe” đã được diễn tả. Bức tranh sông nước thực sự rất hiện thực, gợi lên cuộc rượt đuổi dữ dội, dữ dội của sóng Sông Đà để cướp đi sinh mạng của biết bao con người. Sông Đà đã dốc toàn lực tấn công con người. .

Đặc biệt, sự dữ dội hung bạo của sông Đà được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết qua hình ảnh những chiếc giác hút xoáy tít xuống đáy cùng với bút pháp so sánh kết hợp với trí tưởng tượng phong phú của mình, Nguyễn Tuân Đà đã có những phát hiện vô cùng thú vị khi miêu tả cửa lấy nước khu vực Tà Mường Vát.

Đó là “Khí hút nước như giếng bê tông”, Tiếng nước được nhân hoá Lên đến mức “thở và kêu như hố ga bị nghẹt”. Đặc biệt cách sử dụng độc đáo từ “vùng xoáy đáy” đã miêu tả cụ thể, ấn tượng những chỗ hút sâu, hiểm trở, mặt sông có những chỗ xoáy nhanh, mạnh. Cảm giác đầy hồi hộp, hồi hộp khi trèo qua dòng sông ấy “giống như xe sang số và nhấn ga” đến từ những liên tưởng độc đáo và thú vị. Tác giả đặt mình vào vị trí của người trên thuyền khi đi qua quãng đường đó, sự nguy hiểm cũng được minh họa bằng những ví dụ rất sinh động, có thuyền bị hút vào lòng thuyền và trồng cây chuối ngược… trong sông hạ lưu.

Để có được cái nhìn đầy đủ, đa chiều, tác giả đã mượn góc nhìn điện ảnh để mang đến cho người đọc những cảm nhận rất thực về sông Đà, Nguyễn Tuân hình dung ra một người quay phim dám ngồi. xuống thuyền” rồi cho cả thuyền cầm máy quay xuống lòng hồ Sông Đà đây “rồi nhìn ngược lên” làm hình ảnh những cái mút hiện lên rõ mồn một như miệng con thủy quái khổng lồ chực nuốt chửng bất cứ thứ gì lọt qua. hình ảnh những cái hút nước được miêu tả chi tiết, tỉ mỉ từ hình dáng, màu sắc, âm thanh, sự chuyển động dữ dội Bằng vốn sống phong phú và trí tưởng tượng sáng tạo, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật sự khủng khiếp của cái hút thông qua hàng loạt so sánh, liên tưởng độc đáo. những hình ảnh giúp người đọc hình dung sức hấp dẫn như những cái hấp dẫn, vị thần tàn bạo vừa khiến họ thấy ghê sợ, vừa khó thoát khỏi sự ghê rợn mà ngôn từ ma mị của Nguyễn Tuân đã truyền sang họ.

Nét hoang sơ của sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa qua nét đặc trưng của thác đá. Âm thanh của tiếng thác được cảm nhận từ xa đến gần với sự nhân hóa các từ “oán”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng chế nhạo” kết hợp với phép ví von “gầm lên như tiếng nói”. hàng ngàn con trâu nép mình giữa rừng, rừng trúc bốc cháy… gầm lên cùng đàn trâu đang đốt da trâu.” Dòng thác như mở thêm âm lượng, tiếng gào thét của thiên nhiên rạo rực, rạo rực, mạnh mẽ và man dại.Từ những âm thanh đó, tác giả giúp người đọc cảm nhận được tính cách hung dữ như một con thủy quái khổng lồ bằng những âm thanh cuồng loạn, khiêu khích.

Đặc biệt, tác giả sử dụng phép so sánh với hình ảnh ở thế đối lập hoàn toàn. Dùng lửa để tả nước, dùng rừng để tả sông, dùng giấc mơ của trâu để tả thác nước như ầm ầm, kêu than, van xin… Cách miêu tả của tác giả rất độc đáo nhờ bút pháp so sánh kết hợp với lối hành văn riêng. sinh ra nhiều lĩnh vực liên tưởng, trí tưởng tượng phong phú. Nhờ đó ta thấy được Nguyễn Tuân quả là một nhà văn tài hoa.

Bằng pháp nhân hóa, Nguyễn Tuân đã thổi sức sống vào những viên đá, biến chúng thành những khuôn mặt có hành động rất “chung” với chân dung, dáng vẻ “ngỗ nghịch”, viên đá nào cũng nhăn nhúm”, hình dáng, phong thái, đường bệ uy nghiêm, oai nghiêm. rồi “hôn nhau”, “thách thức”, mỗi khi bóng thuyền xuất hiện là chúng “nhảy lên”, “vồ”, “ngắt ngang”, “đập” “tiêu diệt” cùng thuyền. Biện pháp nhân hóa đã phát huy hiệu quả làm nổi bật tính cách hung bạo, độc ác, thích đánh nhau. Dường như Sông Đà đã giao việc cho từng hòn đảo với nhiệm vụ tiêu diệt loài người. Những hòn đảo đó trong nhận thức của Nguyễn là những chiến binh mang sứ mệnh khác nhau giúp bạn tiến vào để tiêu diệt. Chỉ vài dòng đặc tả thôi cũng đủ khiến nơi đây trở thành nỗi sợ hãi kinh hoàng cho những kẻ yếu bóng vía.

Đá kết hợp với nước bố trí thế trận thành 3 tuyến tấn công: trung tuyến, trung vệ, lũy chìm và lũy nổi. Sóng nước gào thét trong bệnh viện Đe dọa tinh thần con người. Sông Đà đã huy động sức mạnh tổng lực “lao vào bẻ chèo”, “Dòng sông như liều binh”, đạp trái, thúc gối vào bụng và mạn thuyền”, “Cho cả thuyền lên và bám lấy nó.” Chiếc thuyền như một vật gì đó túm lấy thắt lưng người lái đò.”

Qua những dòng miêu tả trận sông Đà, Nguyễn Tuân một lần nữa khiến người đọc phải rùng mình trước sự nguy hiểm và đáng sợ của lòng sông Đà.

Võ công thần sông đầy bí ẩn, mảng đá xếp thành ba mầm. Ở vi khuẩn có nhiều cửa tử nhưng chỉ có một cửa sinh và đặc biệt là vị trí sinh thường thay đổi. Đọc đến đây ta liên tưởng ngay đến bát quái đồ của Khổng Minh năm xưa, chỉ có trận địa nay đã dời đến mặt Sông Đà.

Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt thuật ngữ quân sự như chiến thuật quân sự, đồn lũy, cửa sinh tử, phản công, phục kích, trận đồ vi mô, quân phòng thủ, hầm chìm, đồn nổi… tạo không khí căng thẳng, kịch tính như một trận chiến thực sự giữa người với người. và thiên nhiên đã diễn ra trong nhiều thế kỷ.

Sông Đà không chỉ mang vẻ đẹp dữ dội, kẻ thù số một của con người mà nó còn hiện lên với một chân dung hoàn toàn đối lập, một nét vẽ tương phản nhưng cùng tồn tại trong một tổng thể. Chính vì vậy, vẻ đẹp của nó càng trở nên độc đáo, ấn tượng và thu hút hơn. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà hiện lên trên nhiều phương diện và được Nguyễn Tuân cảm nhận từ những góc độ khác nhau.

Dòng sông Đà nhìn từ trên cao xuống với hình dáng duyên dáng và sự biến đổi màu sắc vô cùng phong phú. Từ trên máy bay nhìn xuống, sông Đà trông như “một sợi dây ngoằn ngoèo… tuôn chảy như một áng tóc trữ tình, tóc và rễ ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, nở hoa tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt. cánh đồng mùa xuân”. Điệp từ dài và nhịp thơ nhẹ nhàng như một lời ru tạo nên vẻ thong dong, nên thơ cho Sông Đà. So sánh dòng sông như áng tóc trữ tình là một nghệ thuật độc đáo mới. Chính lối so sánh đầy thơ mộng này vừa giúp thể hiện vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm, đồng thời cũng bộc lộ khí chất hào hoa phong nhã của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân. So sánh, sông Đà mang dáng dấp của một thiếu nữ căng tràn sắc xuân, xõa tóc duyên dáng giữa một rừng hoa màu khói. Bao nhiêu vẻ đẹp hữu tình, nên thơ của đất trời chợt ùa về trong những câu văn của Nguyễn Tuân.

Đà Giang hiện ra với đủ sắc màu thay đổi theo từng mùa. Mùa xuân nước sông trong xanh, mùa thu nước sông chín đỏ như da mặt người bị rượu làm cho thâm tím. Tác giả cũng so sánh màu xanh ngọc bích của sông Đà với màu xanh biếc của sông Gâm, sông Lô. Đồng thời, nhà văn cũng đặt sông Đà trong dòng chảy của lịch sử, ông tỏ ra bất bình trước cách đặt tên vu khống của bọn thực dân gọi Sông Đà là sông đen. Đoạn văn không chỉ thể hiện sự cảm nhận tinh tế của một nhà văn tài hoa mà còn bộc lộ một cái tôi bác học của nhà văn.

Con sông Đà dưới con mắt của một người rừng lâu năm trở nên mới mẻ và gợi cảm. Với Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như một “cố nhân”. Hai từ “cố nhân” vang lên chứa đựng biết bao tình cảm trìu mến, xúc động của tác giả khi gặp lại sông Đà đã cho thấy một mối quan hệ vô cùng sâu sắc, tình cảm, tri kỉ.

Thời điểm tác giả phát hiện ra vẻ đẹp cổ kính của dòng sông, mặt sông lấp lánh như đứa trẻ nghịch chiếc gương soi trong mắt loé lên một màu nắng tháng ba rực rỡ. ). Dòng sông như được chảy ngược từ ngàn xưa với vẻ đẹp cổ kính như câu ca của tiền nhân. Đôi bờ sông Đà đầy chuồn chuồn, bươm bướm tạo nên một bức tranh nhiều màu sắc, tô điểm thêm cho vẻ đẹp của dòng sông.

Bên cạnh miêu tả dòng sông, nhà văn còn trực tiếp tâm sự, bộc lộ cảm xúc, niềm hạnh phúc khi gặp lại cố nhân. Những ca từ đầy nhạc tính và cảm xúc: “Ôi nhìn dòng sông vui như thấy nắng tan sau cơn mưa dầm, vui như nối lại giấc mộng đã đứt”. Thán từ “wow” ở đầu câu thơ thể hiện nhiều cảm xúc ngạc nhiên, thán phục, vui mừng nhưng cũng “ấm áp” của tác giả khi gặp lại “cố nhân”. Cách dùng từ, cách diễn đạt mới lạ, ấn tượng, “ấm áp, êm đềm”. Nguyễn tuân theo góc nhìn của người ngồi trên thuyền lênh đênh trên sông nước, cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp hoang sơ nên thơ, lặng lẽ nhưng tràn đầy sức sống của Đà Giang. Câu “Thuyền em trôi sông Đà” là một câu đầy vần gợi nhịp điệu nhẹ nhàng xuôi chèo mát mái của con thuyền, đồng thời gợi hình ảnh con người đang ung dung, thưởng ngoạn vẻ đẹp của thiên nhiên. .

Từ im lặng được lặp lại hai lần thể hiện sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối, thậm chí là sự trống vắng của một con người. Sự tĩnh lặng như đưa ta ngược dòng quá khứ về với cõi thực, một vẻ đẹp cổ kính hoang sơ như một bến bờ tiền sử và hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xưa. Đặc biệt, tác giả còn sử dụng nghệ thuật chuyển động và miêu tả thiên nhiên, từ những âm thanh trong tâm tưởng như tiếng còi tàu hỏa đến âm thanh của hiện tại trên cả nước đều có phần gợi hình. một không gian bao phủ bởi một sự tĩnh lặng tuyệt đối.

Vẻ hoang sơ, mộng mơ được thể hiện ấn tượng qua hình ảnh “hoang sơ như bãi tiền sử”, “hồn nhiên như cổ tích xưa”, người ta thường so sánh cái trừu tượng với cái cụ thể. , cái lạ đi đôi với cái quen, nhưng ở đây, Nguyễn Tuân đã làm ngược lại. Qua sự so sánh này, tác giả đã vẽ nên bức tranh sông Đà hoang sơ, thơ mộng đồng thời thể hiện tình cảm vô cùng trìu mến, yêu thương mà ông dành cho cô gái sông Đà. Hình ảnh đứa trẻ lần đầu biết yêu nhưng không có xương đã tô thêm nét thơ mộng cho cảnh sông nước.

Hình ảnh những cánh đồng ngô đâm chồi nảy lộc là những bông ngô non đầu mùa, rồi cỏ vươn đọt non, “Đàn cá dầm xanh tung tăng mặt sông trắng như bạc rơi” gửi hình ảnh của một Song Đà thoát kiếp. Sống nhiều mặt, lắng đọng trong nỗi buồn, cùng với tiếng còi trong tâm tưởng tác giả thể hiện niềm mong mỏi và hứa hẹn của người dân về một tương lai giàu tiềm năng du lịch của Tây Bắc.

Nguyễn Tuân đã miêu tả sông Đà rất ấn tượng với những đặc điểm, tính chất đối lập nhau, vừa hùng vĩ, hung bạo kết hợp với nét thơ mộng, trữ tình. Vẻ đẹp đó được miêu tả qua các hình thức nghệ thuật tiêu biểu như thủ pháp tương phản, phép tu từ quen thuộc, đặc biệt là hình ảnh Sông Đà được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau mang một vẻ đẹp riêng. Đa chiều Cho dòng sông. Thông qua hình ảnh con sông Đà, tác giả đã gửi gắm tình cảm gắn bó sâu nặng với quê hương đất nước và niềm tự hào về vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 26

Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về vẻ đẹp của cuộc sống, của con người, với những tâm tư, tình cảm gắn bó với quê hương. Bằng ngòi bút tài hoa, uyên bác độc đáo, bằng tình yêu thiên nhiên sâu sắc và những khám phá mới mẻ trong chuyến trải nghiệm ngược dòng Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã viết nên những trang bút tái hiện độc đáo. Chỉ ra độc đáo vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của sông Đà cũng như thiên nhiên hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc qua bài văn “Người lái đò sông Đà”. Giữa thiên nhiên bao la, rộng lớn của núi rừng Tây Bắc hiện lên hình ảnh người lái đò sông Đà gan dạ, mưu trí, dũng cảm gồng gánh con thuyền mưu sinh để chiến đấu với dòng sông Đà.

Bài tùy bút Người lái đò Sông Đà, trích từ tập “Sông Đà” sáng tác năm 1960, là một tác phẩm nghệ thuật hay mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi đầy gian khổ và thú vị về miền Tây rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc. chỉ để thỏa mãn sự tìm kiếm đất đai, mà chủ yếu là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên và “chất vàng thứ mười đã thử lửa” trong tâm hồn của những con người lao động nơi đây.

“Người lái đò sông Đà” là bài văn viết về thiên nhiên và con người lao động vùng Tây Bắc. Nổi bật giữa thiên nhiên núi rừng Tây Bắc là hình ảnh con người, hình ảnh người lái đò dụng trí, dũng cảm. Với phong cách nghệ thuật rất riêng, khai thác mọi vấn đề dưới con mắt nghệ thuật, đối với Nguyễn Tuân, lái đò là một nghệ thuật và người lái đò là một nghệ sĩ.

Người lái đò trên sông Đà trong tác phẩm là một ông lão đã ngoài 70 tuổi, đã hơn 15 năm lái đò trên dòng sông này. Có lẽ chính vì dành phần lớn thời gian làm nghề lái đò trên sông mà bản thân ông đã trở thành một người lái đò lão luyện. Điều chỉnh vô lăng sáu mươi lần…”.

Nhân vật người lái đò là một người từng trải, am hiểu và rất thành thạo nghề chèo đò, đã đạt đến trình độ “nhắm mắt là nhớ tỉ mỉ như đinh đóng cột mọi dòng nước của thuyền”. tất cả những thác nước nguy hiểm”. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với ông: “Sông Đà, đối với người lái đò ấy như một trường thiên anh hùng ca mà ông biết đến cả những dấu chấm than, những dấu chấm câu và cả những ngắt dòng.

Quả là một nghệ thuật so sánh thú vị mà “rất văn” của Nguyễn Tuân. Hình ảnh người lái đò với “cái đầu hoa râm ấy đặt trên một thân hình cao và rắn chắc như sừng, mùn” và đôi tay vẫn là cánh tay của một “cậu bé”, “còn quá trẻ”.

Ông đứng trước những thử thách của sông Đà với những sức mạnh của thiên nhiên khắc nghiệt như những tảng đá ghê gớm, những cạm bẫy đáng sợ: dòng sông uốn lượn, thấy bọt sóng trắng xóa một chân trời. Đá ở đây mấy nghìn năm mai phục dưới lòng sông, dường như mỗi lần có thuyền xuất hiện ở quảng trường hiu quạnh mà ồn ào này, mỗi lần thuyền lỡ rẽ sóng là một số hòn đảo rơi xuống. đứng dậy lấy thuyền.”

Và một mình trên thuyền, anh đã chiến đấu như một chiến binh: “…hai tay giữ mái chèo khỏi bị sóng đánh xô vào người. Nước ầm ầm vây lấy tôi, ập vào làm gãy mái chèo, vũ khí trên tay tôi”, và sóng “đánh vào đầu gối và mạn thuyền.

Đôi khi họ đặt cả thuyền lên. Nước bám vào thuyền như một đô vật túm lấy eo người lái đò, đòi lộn mình giữa dòng nước giông tố. Có lúc tưởng chừng như người lái đò bị nhấn chìm trong dòng sông… Từng chi tiết được tác giả miêu tả chân thực, đậm nét cho thấy sự hung dữ khủng khiếp của dòng thác đối với con người mà chỉ cần lóa mắt là có thể bỏ qua. ít là phải trả giá bằng mạng sống của mình.

Nhưng bản lĩnh và bản lĩnh thôi chưa đủ, điều quan trọng hơn là kỹ năng lái con thuyền của người cầm lái đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Đối với tác giả Nguyễn Tuân, người lái đò là một nghệ sĩ.

Tác giả đã so sánh người lái đò sông Đà với người lái đò lao xuống dốc, tuy rất nguy hiểm nhưng người lái đò vẫn phanh chân, phanh tay, tiến, lùi “nhưng như con thuyền lao xuống thác, không có phanh”. cùng lắm là chỉ lao mà không lùi, không đâm vào lòng nước, thuyền lật nghiêng mà chồm chồm…”.

Rồi lại bằng biện pháp so sánh nhưng bằng những hình ảnh hết sức táo bạo, tác giả đã miêu tả dòng sông Đà luôn thay đổi, mỗi nơi như có một cạm bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có cách ứng phó thích hợp. phó tư nhân. Có nơi, nước sông “gào thét như sôi trăm độ, muốn húc thuyền phải đóng vào nồi nước sôi khổng lồ”. “Nếu nước chảy nhầm là chết ngay”.

Có khác nào “hút nước” xoáy sâu như giếng. “hút nó hút xuống, ghe trồng ngay cây chuối úp ngược rồi lặn mất tăm”… Thật là một khúc sông nguy hiểm, gian khổ cho con người. Tuy nhiên, “người lái đò cố nén vết thương, chân vẫn bấu chặt vào cần lái..”. Dù khuôn mặt “méo mó” vì những đòn hiểm, “nhưng trên chiếc ghe sáu tay chèo, tôi vẫn nghe rõ khẩu lệnh ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm lái”…

Thông qua việc miêu tả đến cùng sự dữ dội của dòng sông, Nguyễn Tuân đã ca ngợi lòng dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi chiến công vĩ đại của người lái đò vượt qua bao ghềnh thác, sóng gió. Thậm chí, họ đã đưa con thuyền về bến bình yên không chỉ một lần mà hàng trăm lần, trong suốt 15 năm làm người lái đò qua sông Đà.

Cuộc đọ sức giữa thiên nhiên khốc liệt và con người nhỏ bé, trong đó con người đã chiến thắng; trở về cuộc sống yên bình: “Dòng sông đã trở lại bình yên. Đêm đó, nhà phà đốt lửa trong hang, nướng ống cơm…”

Từ đây, cảm hứng lãng mạn trong sáng lan tỏa trong từng câu văn đậm chất hiện thực, tạo cho đoạn văn một sức hấp dẫn khó cưỡng. Đối với tác giả, thiên nhiên là chất vàng của Tây Bắc và con người là chất vàng vạn vật đã được thử lửa. Trong tâm tưởng của Nguyễn Tuân, con người đẹp hơn tất cả, quý hơn tất cả.

“Người lái đò sông Đà” là một bài thơ hay được làm nên từ tình yêu đất nước tha thiết, thiết tha của một người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa hùng vĩ, tráng lệ, vừa trữ tình, thơ mộng. của những con người chân chất và đặc biệt là những người dân lao động bình dị ở Tây Bắc. Hình ảnh người lái đò sông nước tiêu biểu cho người dân lao động Tây Bắc, gan dạ, dũng cảm, kiên quyết, luôn kiên trì, tận tụy với công việc. Nổi bật giữa thiên nhiên bao la, hùng vĩ của vùng núi Tây Bắc là những con người lao động nơi đây.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 27

Nguyễn Tuân là người con của thủ đô Hà Nội, sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống Nho học. Con người ông ưa “chủ nghĩa xê dịch”, với lối sống và lối viết phóng khoáng, vượt ra khỏi khuôn khổ của thời đại, quan niệm “đời là trường du ký”, ông viết trước hết để khẳng định cái tôi cá nhân của mình. Trong sáng tác, Nguyễn Tuân cho rằng lao động là một loại hình nghệ thuật, nghiêm túc, thậm chí nhà văn phải chịu “thắt lưng buộc bụng” mới có thể cho ra đời những tác phẩm có giá trị, có lẽ chính vì quan điểm độc đáo này. Người ta nói “cái tôi của Nguyễn Tuân mới là nét chân chính của người nghệ sĩ”. Nói về đặc điểm của nhà văn này, người ta thường khắc ghi đôi lời tài hoa, uyên bác, ông không chỉ có tài văn chương, một thiên tài về thể loại tùy bút mà còn có hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực. qua đó mang đến cho tác phẩm của ông những góc nhìn mới mẻ, toàn diện khiến người đọc phải kinh ngạc bởi cách dùng từ điêu luyện và vốn kiến ​​thức phong phú của ông. Nguyễn Tuân có nhiều sáng tác chia làm hai thời kỳ, trong đó tiêu biểu nhất sau Cách mạng tháng Tám là tùy bút Sông Đà (1960), được viết trong chuyến đi thực tế của ông lên vùng Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc. tác giả. Người lái đò sông Đà là một đoạn trích trong bài tùy bút này với hai hình tượng trung tâm là dòng sông Đà và người lái đò trên sông.

Nhan đề từ Nguyễn Tuân cũng khảo kỹ, mượn của Phan Huy Chú câu “Sông ta ở đông/Đà giang độc bắc”, để nói về sự quái dị của con sông này, đã có bao nhiêu con sông khác chọn đi. xuống hướng sông. Đông về, chỉ có sông Đà chọn cho mình một con đường ra Bắc khác thường, ngạo nghễ. Có lẽ chính tính cách thích một mình, một mình, trong con người ấy có gì đó giống với cái tôi “ngố tàu” của Nguyễn Tuân nên khi viết, tôi cảm nhận Nguyễn Tuân trong sáng và say mê với công việc. con sông này. Mượn thơ của Phan Huy Chú chưa đủ, người viết còn mượn một dòng thơ của nhà thơ Tây Ban Nha rằng: “Đẹp làm sao, tiếng hát trên sông” gợi lên vẻ đẹp thơ mộng, phóng khoáng của Đà Giang. bên cạnh vẻ hiên ngang, hùng vĩ đã có từ bao đời nay của một vùng sông nước miền núi Tây Bắc.

Sông Đà đã hiện lên trong tác phẩm với một diện mạo thật sinh động, như một hữu thể, cũng có linh hồn, có nội tâm với cả cuộc đời, với nguồn gốc từ đất nước Trung Hoa xa xôi, chảy qua hơn 400km với bao tìm kiếm. trở về biên giới nước ta, rồi nhập tịch Mường Tè, Lai Châu, lấy tên riêng là “Dạ”. Chợt người ta có sự liên tưởng đến sóng gió của một đời người nên khi đặt chân đến dải đất hình chữ S này, sông Đà đã lộ rõ ​​bản chất khó hiểu, kiêu ngạo của mình làm loạn cả một vùng. Tây Bắc, có lúc dữ dội, dữ dội như giận dữ, có lúc nhẹ nhàng, nên thơ và lãng mạn vô cùng. Đầu tiên là con quái vật hung bạo, hùng vĩ, một dòng sông, chảy dọc Tây Bắc, nhiều nhất ở đoạn thượng nguồn có lẽ là thác ghềnh, Nguyễn Tuân có một chuyến đi thể nghiệm dài và cũng là người yêu vật. “Khổ hạnh” tìm tòi, khai thác nên sông Đà trong tác phẩm có những cảnh tượng đắt giá, khiến người ta mới đọc qua thôi cũng đủ thấy độ mênh mang và cảm giác lạnh lẽo giữa lòng sông. Nguyễn Tuân đã miêu tả khúc sông này bằng những hình ảnh rất hấp dẫn “cảnh bãi đá bên bờ sông xây thành”, rồi “trưa nắng ló dạng”, lại “lòng sông như cái yết hầu”, sống động với cảnh đẹp. “Hươu và hổ một lần sang bờ bên kia” tạo cảm giác “hè mà cũng thấy lạnh”. Tất cả những hình ảnh ấy khiến người đọc liên tưởng rằng dòng sông như một nhân vật bí ẩn, lạnh lùng, dùng đôi mắt sắc lạnh và ánh hào quang u ám để quan sát, nghiên cứu tất cả những người lọt vào giữa. lòng sông, mang đến những áp lực vô hình và khó lường. Nhưng đó mới chỉ là khúc dạo đầu cho sự quái dị khủng khiếp của dòng sông này, đọc những âm thanh mà Nguyễn Tuân đã vắt ra từ vốn từ vựng tiếng Việt của mình để tạo ra, người ta phải thực sự thấy rùng rợn và hung dữ. . Mặt ghềnh Hát Loong là một cảnh tượng “hàng cây số nước xô, đá đẩy sóng, sóng xô ngược gió, quanh năm cuộn trào những cơn gió như đòi nợ, hầu như người lái đò sông Đà nào cũng bắt được nó. “. Rồi ở Tà Mường Vát dưới Sơn La, có cảnh nước “thở kêu như cống bị nghẹt, nước đặc quánh như vừa đổ dầu sôi vào”. Hay có tiếng hát lạ, với điệu bộ “nghe như than thở, rồi van xin, rồi khiêu khích, giọng đanh thép mà giễu cợt”, khiến người ta dè chừng, ngại nắm tay. chèo thêm. Đến nơi dòng thác đổ xuống, dường như dòng sông biến thành mãnh thú, nước ở đó “gầm thét như tiếng đàn trâu ngàn mộng làm tổ giữa rừng và rừng trúc như bốc cháy, thiêu rụi rừng của lửa, rừng lửa và rừng lửa. gầm lên với đàn trâu đốt da…”. Nó khiến người ta liên tưởng đến một con thủy quái đang quằn quại thích thú, tức giận, đói khát hay ai đó vô tình chọc phải chiếc cân đang úp ngược khiến toàn bộ rối tung lên như vậy. Tóm lại, tiếng nước trong miêu tả của Nguyễn Tuân quả thực rất lôi cuốn và hấp dẫn, nó làm nổi rõ vẻ đáng thương, khó ưa của con sông đầu nguồn này.

Tất nhiên, vẻ hung bạo và hùng vĩ của sông Đà không dừng lại ở đó mà còn ấn tượng hơn với hình ảnh những con hút “đặc sản” của những dòng sông có độ dốc lớn như sông Đà. Trong lăng kính của Nguyễn Tuân, những cửa lấy nước ấy được miêu tả bằng nhiều hình ảnh gợi liên tưởng sâu sắc cho người đọc như những hình ảnh rất độc đáo “như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cho cây cầu”. ”, hay “mặt giếng được xây hoàn toàn bằng nước sông xanh với khối thủy tinh đúc dày, khối pha lê xanh”, rồi lại như “Chén nước pha lê khổng lồ”, rồi “Từ đáy lấy nước nhìn lên bức tường. Phố thu hút mặt sông chênh vênh thành cột nước cao đến mấy thước”,… Qua những hình ảnh gợi cảm ấy, có thể thấy sông Đà có những dòng nước xoáy rất đẹp, rất đẹp, trong xanh nhưng cũng ẩn chứa ngàn thu. của sự nguy hiểm cho bất cứ ai vô tình vấp phải và rơi vào đó thì chỉ có bị tiêu diệt.Thật ứng với câu nói “càng đẹp càng độc” của người xưa.Và có lẽ tác giả đã có sẵn máu điện ảnh trong người nên muốn tác phẩm trở nên nổi bật hơn và mang đến cho độc giả một góc nhìn độc đáo khi vẽ nên viễn cảnh một nhà quay phim liều lĩnh nào đó đưa Cả máy lẫn máy vào dòng nước xoáy để bắt lấy khoảnh khắc quay tròn như phèn chua của chiếc máy hút nước, thật khiến người đọc thích thú rùng mình và không khỏi khâm phục cách Nguyễn Tuân đưa điện ảnh vào trong văn của mình.

Diện mạo của con sông Đà cục mịch, khó tính này có lẽ được thể hiện sinh động nhất qua hình ảnh những tảng đá và những “con sâu li ti” mà chiến lược “thần đá” đã thể hiện. để nuốt chửng bất cứ ai dám khiêu khích. Bằng những hình ảnh sống động của tảng đá mà Nguyễn Tuân cho rằng đã mai phục ở đây hàng nghìn năm, chờ đợi một kẻ liều mạng đi qua là hừng hực khí thế “chồm dậy” vồ thuyền, để rồi dáng vẻ “ngỗ ngược”, “uốn éo” , ngoại hình “méo mó”, các tư thế đứng, ngồi, nằm, nghiêng… đều đủ cả, khiến người ta phải e dè trước ánh hào quang mà họ tỏa ra. Ngoài ra, đá ở đây không ai dễ thua, chúng tự chọn cho mình một nhiệm vụ, có kẻ dàn hàng ngang, có kẻ muốn cận chiến, thậm chí có kẻ còn giả danh để lộ lai lịch, để yên cho lũ nhóc. phục kích khiến thuyền không quay đầu được. Thế mới thấy những tảng đá này khủng khiếp đến mức nào, không chỉ xếp mảng mà còn thể hiện những “sâu vi thạch” có tới 3 lớp, lớp sau có nhiều cửa tử hơn, ít cửa sinh hơn, kênh sinh hẹp, dòng chết dày đặc. , dường như không cho kẻ thù bất kỳ cơ hội sống sót nào. Chẳng biết con sông này khó sống, thích trêu ngươi hay có thù hằn lâu đời nào đó với người dân nơi đây mà lại có bộ dạng ghê gớm, người người sống chết mặc bay như vậy.

Thế nhưng, khác với vẻ hung dữ, thô lỗ, cộc cằn ở thượng nguồn, người ở hạ lưu lại phải nhìn sông Đà bằng con mắt khác. Dòng sông hiện lên với dáng vẻ hiền hòa, từ điểm nhìn cao và xa trên máy bay, dòng chảy như một sợi dây ngoằn ngoèo, mềm mại trải khắp Tây Bắc. Nhìn gần, nó mang dáng vẻ của một vẻ đẹp kiêu sa, yêu kiều với dòng “trôi chảy như một áng tóc trữ tình, chân tơ kẽ tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói Mèo trường xuân đốt núi”, vô cùng lôi cuốn và hấp dẫn. Bên cạnh vẻ đẹp dịu dàng hiền hòa, người ta còn có thể bắt gặp một sông Đà muôn hình vạn trạng với những sắc màu theo mùa nổi bật, lãng mạn như “Mùa xuân nước sông xanh ngọc bích, nhưng Sông Đà không xanh màu hến sông Gấm”. Sông Lô”, và “Mùa thu nước sông Đà đỏ như da mặt người bị rượu làm cho đỏ, mỗi lần nổi giận là màu đỏ giận của người bất bình”. Nguyễn Tuân yêu và gắn bó với quê hương, đặc biệt là dòng sông Đà kiêu kỳ, khó chiều này, ông coi dòng sông ấy là “cố nhân” để nghĩ về “màu nắng tháng ba”. Trong thơ Lý Bạch có câu thơ nổi tiếng “Yên Hoa, tam tâm hà Dương Châu” tức là sắc hoa đua nở rực rỡ vào mùa xuân kết hợp với sương mù trên mặt sông khiến lòng người thổn thức một cảm giác thân quen. Rồi cũng có lúc sông Đà như “người tình vô danh” trong khung cảnh nương ngô, đàn nai, bến sông hoang vu với câu chuyện cổ tích xưa… khiến người lữ khách xuôi dòng xúc động.

Đó là dòng sông, mà trong đoạn trích Người lái đò sông Đà, hình ảnh chính nổi bật nhất phải là hình ảnh người lái đò. Nguyễn Tuân bài này chắc có nhiều phần giống với đại thi hào Nguyễn Du, sông Đà là Thuý Vân và người lái đò là Thuý Kiều, lấy cái dữ dội, hùng vĩ của dòng sông để làm nổi bật vẻ hùng vĩ. trong lao động của con người. Người lái đò thật xứng đáng với danh hiệu “chất vàng mười Tây Bắc”, anh không tên tuổi, không rõ hình dáng, người ta chỉ có thể nhận diện anh qua công việc lái đò nặng nhọc, gian khổ của anh. Công việc mà theo Nguyễn Tuân ông đã làm đã đạt đến trình độ của một nghệ sĩ, một nghệ sĩ trong tác phẩm Người qua sông Đà. Con người ấy, đã ngoài đôi mươi nhưng vẫn miệt mài lao động, đúng như Nguyễn Khoa Điềm đã nói “không ai nhớ tên” nhưng họ vẫn sống và cống hiến cho sự nghiệp. đất nước mỗi ngày. Ông lão hiện lên với vẻ đượm mùi sông nước mênh mông, dáng người khắc khổ “tay khua như chống sào, chân duỗi ra như nắm chặt bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác đổ sông Đà, đôi mắt long lanh nhìn thế giới như nó đang nhìn về một bến xa,…”.

Nói ông lái đò là một nghệ sĩ có phẩm chất vàng mười của Tây Bắc bởi ông lão không chỉ là một người lao động bình thường mà ở con người ông còn thể hiện hai nét đẹp nổi bật đó là cái đẹp. của một dũng sĩ nơi chiến trường non sông, ngày ngày chiến đấu vì miếng cơm manh áo và vẻ đẹp của một nghệ sĩ tài hoa hăng say lao động, một bậc thầy trong nghệ thuật chèo viết ngày nào. Sử thi bất tận về lao động không ngừng nghỉ. Người ta cũng có phần tò mò, tại sao hình ảnh mà Nguyễn Tuân chú ý lại là một cụ già mà không phải một thanh niên. Tuy nhiên, có câu “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, biết bao kinh nghiệm chinh chiến trên dòng sông gian nan, hiểm trở này đã phải đánh đổi bằng mồ hôi, kinh nghiệm và cả tính mạng của người xưa, để đến hôm nay, tuy tuổi đã cao nhưng ông đã thực sự trở thành một người lái đò lành nghề, chuyên nghiệp mà không phải thanh niên nào cũng có được. Hơn nữa, cái hay của ông lão còn đến từ sự liều lĩnh, dám nghĩ dám làm, ông bảo đã hơn trăm lần ngược xuôi khúc sông này, và hơn 60 lần cầm lái thì thử hỏi sao được. nhiều người là đủ. Can đảm đối mặt với sóng gió như bạn? Rồi thêm vào đó là phẩm chất vàng nghệ của ông lão, nó còn nằm ở sự nhiệt tình và say mê trong công việc, ông làm nghề không chỉ vì mưu sinh, dù đó là tất yếu, nhưng quan trọng nhất, ông vẫn thực sự có niềm đam mê với nó. ưa mạo hiểm, thích cảm giác mạnh. Ông nói: “Đi thuyền trên sông không thác dễ dạy, tay chân dễ ngủ gật”, ấy vậy mà ông già cũng là một người hăng hái, dũng cảm, tâm hồn trẻ trung, sôi nổi không thua kém ai. giờ. Dù bản tính hiếu thắng, ham khám phá, thích chinh phục gian khó đã nhiều lần khiến ông phải lao đao vì bản tính dễ cáu của con sông Đà đầy “rễ nâu”, nhưng ông không bao giờ lùi bước, hay lấy đó làm sợ hãi. , nhưng ngày càng trở nên bướng bỉnh hơn. Nguyễn Tuân hiểu tính cách này của người lái đò, bởi bản thân tác giả cũng có một tính cách như vậy nên ông rất trân trọng so sánh những “chiếc rễ nâu” ấy với những “chiếc huân chương lao động siêu hạng”.

Hình ảnh người lái đò trong lao động thực sự nổi bật khi Nguyễn Tuân dày công miêu tả cảnh ông lão chèo đò qua thác, đó quả thực là một cuộc chiến không khoan nhượng khi “đời người lái đò trên sông Đà là một bi kịch”. cuộc đấu tranh hàng ngày với thiên nhiên, một thiên nhiên Tây Bắc đôi khi như bộ mặt và trái tim của kẻ thù số một. Ở đây, có thể thấy chất nghệ sĩ trong tâm hồn ông lái đò già hiện lên rõ nét, rất nghiêm túc, tỉ mỉ, cần mẫn và kiên nhẫn với công việc. Dòng sông Đà trong trái tim ông đã trở thành một bản trường ca vĩ đại mà người nghệ sĩ dành cả cuộc đời nghiên cứu, tập luyện sao cho nhuần nhuyễn, điêu luyện đến mức thuộc lòng “từng dấu chấm”. câu văn, dấu chấm than, thậm chí cả những đoạn xuống dòng”, khắc sâu vào tâm trí như “đinh đóng vào tim” từng nhịp từng pháp, không sót dù chỉ nửa dấu. Đồng thời, dòng sông cũng trở nên quen thuộc. chiến trường của vị tướng cả đời chinh phạt, nơi ông được phô diễn hết tài năng, tâm huyết và những mưu kế mà ông luôn nghĩ đến. tinh thần mạnh mẽ và hào hoa, mái chèo đã thay dao, con thuyền duy nhất thay chiến mã, dù chỉ có một mình ông nhưng khí phách hào hùng của người lái đò cũng không kém gì so với trận chiến khốc liệt, khốc liệt của sông Đà. Đối mặt với lũ “vi trùng” , ông lão đã không ngần ngại nắm chặt mái chèo để vượt qua những thử thách, đe dọa của những tảng đá khó, Thừa thắng xông lên, tránh khỏi thương tật, có những lúc sông Đà tung đòn hiểm, ông lái đò “méo mặt” nhưng anh vẫn “cố nén vết thương, hai chân kẹp chặt vào cần lái” “nói gọn lệnh ngắn gọn” để các đồng lái vượt qua vi đá đầu tiên an toàn. Rồi ngay lập tức bước sang màn thứ hai, cuộc chiến giữa người và sông giống như một bộ phim hành động càng về sau càng gay cấn, hồi hộp. Chặng này, cửa tử ngày càng nhiều, cửa sinh lệch về phía hữu ngạn, nhưng với người lái đò thì đã quen, “đã nắm chắc quy luật của thần sông, thần đá”, “thuộc tuân theo luật sông”. bị đá mai phục ở chỗ này”, thế là ông lão tự tin “cầm tay lái” lao thẳng vào cửa sinh trước những khuôn mặt xanh mét giận dữ của đám đá dàn trận. Còn cửa cuối cùng, khó khăn nhất, tất cả cửa sinh tử nằm ở giữa, người xưa chỉ cần nhìn thẳng mũi thuyền lao vào đó đi nốt chặng thứ ba rồi khải hoàn trở về hạ lưu, qua ba cửa sinh tử đó chết đi, người ta mới thấy ông lão hiện ra với bản chất dũng cảm, sự kiên cường đã được trui rèn trong suốt cuộc đời của một người lính, cùng với nhiệt huyết lao động và chinh phục thiên nhiên của một con người nghệ sĩ khéo léo có “tay lái tài hoa”.

Người lái đò sông Đà là một đoạn trích xuất sắc trong bài tùy bút Sông Đà, tác phẩm tiêu biểu nhất trong nền văn học Việt Nam ở thể loại tùy bút, cũng như trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân. Ở đó, người ta nhìn thấy hai hình ảnh vô cùng ấn tượng đó là hình ảnh sông Đà với sự hùng vĩ, dữ dội và kiêu sa. Từ hình ảnh dòng sông, hình ảnh người lái đò đã hiện lên sinh động, rõ nét và nổi bật với ba vai trò người kéo đò, người lao động bình thường, người chiến sĩ dũng cảm và người nghệ sĩ điêu khắc tài hoa. đào tạo thạc sĩ.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 28

Nhà văn Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trước năm 1945, ông đã để lại dấu ấn trong lòng người đọc với tập “Vang bóng một thời”. Sau Cách mạng tháng Tám thành công, sáng tác của ông vẫn giữ được những nét sáng tạo độc đáo riêng. Nguyễn Tuân được biết đến là nhà văn tôn thờ cái đẹp. Anh luôn muốn khám phá mọi ngóc ngách tươi đẹp của thế giới về văn hóa và thẩm mỹ. Con người và thiên nhiên hiện lên trong văn chương của ông như những tác phẩm nghệ thuật độc đáo và tráng lệ.

Người lái đò sông Đà được rút ra từ bài tùy bút Sông Đà được ông sáng tác năm 1960, bạn đọc sẽ cảm nhận rõ hơn. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi gian khổ nhưng đầy thú vị của nhà văn lên vùng đất Tây Bắc đầy hiểm nguy. Trong đoạn trích, hình ảnh dòng sông Đà hiện lên quanh co, uốn lượn theo sườn núi. Sông Đà nước chảy xiết, độ dốc cực lớn. Chính những khác biệt đó đã tạo cho Đà Giang một vẻ đẹp hoang sơ nhưng vô cùng kỳ vĩ. Bởi chính sự hung bạo mà trữ tình của sông Đà là cơ sở làm nổi bật vẻ đẹp tài hoa của người lái đò trên sông.

Ngay từ lời kể đầu tiên, nhà văn đã dẫn dắt người đọc cảm giác vừa sợ hãi tột độ nhưng cũng vừa ngây ngất, thích thú trước hình ảnh con sông Đà đầy hung bạo, hung dữ. Điều đó thể hiện rõ ngay từ những mô tả đầu tiên là “đá bên bờ sông xây thành”. Ở đây, nhà văn sử dụng nghệ thuật ẩn dụ ví von những bãi đá ven sông như những thành trì kiên cố, vững chắc, ẩn chứa nhiều bí mật và nhiều nguy hiểm đe dọa. Càng đọc, người đọc càng cảm thấy thích thú với cách ví von và cách dùng từ miêu tả dòng sông lạ lùng, độc đáo của ông. Ông vẽ bằng lời rằng mặt sông thường “đúng buổi trưa” mới có mặt trời. Và lúc đó, những vách đá như “đập chặt lòng sông như cổ họng”, rồi “có lúc tưởng chừng như con nai, con nai nhảy từ bờ này sang bờ kia”. Nhà văn thể hiện những liên tưởng tưởng chừng như chỉ là tình cờ, ngẫu nhiên nhưng đầy dụng ý nghệ thuật. Cái tài của Nguyễn Tuân là ở đó. Anh ấy nói mà không nói và anh ấy hành động mà không làm. Những hình ảnh, câu chữ được sắp xếp một cách tự nhiên đến mức không ai nghĩ anh cố tình. Ví dụ, động từ “choke”. Nó giống như một từ dùng trong văn nói hơn là văn viết, nhưng khi nó xuất hiện với hình ảnh “như cái yết hầu” thì nó hoàn toàn phù hợp và không từ nào có thể thay thế được.

Vẻ đẹp dữ dội của Đà Giang còn thể hiện ở việc nhà văn cảm nhận được cái lạnh khi mùa hè đi qua. Cảm giác đó vừa cho thấy không khí trong lành ở đây vừa tạo nên một khung cảnh tuyệt vời, với những vách đá. Đứng thẳng khiến con người cảm thấy mình thật nhỏ bé giữa thiên nhiên rộng lớn.

Vẻ đẹp tàn bạo của dòng sông, bởi nó là tiền đề tôn lên vẻ đẹp trữ tình và hình tượng người lái đò sau này. Cảnh hung bạo của dòng sông còn được miêu tả đậm nét qua mặt ghềnh Hát Loong. Tác giả viết rằng dòng sông phải dài hàng nghìn cây số thì mới “nước đối với băng, đá đối với sóng, sóng đối với gió”. Chỉ một câu nhưng từ “xô” được lặp lại ba lần và hàng loạt tiếng đanh hiện lên khiến người đọc có cảm giác như đang bị sóng, gió, nước xô vào, mỗi lúc một cao hơn, mạnh hơn, liên tục hơn. hồi phục hơn. Qua đây ta thấy rõ sức mạnh của thiên nhiên thật khủng khiếp và lạnh lùng. Nó “hùm”, hầm hè như thú dữ, lì lợm và hung dữ. Nó sẵn sàng giương nanh múa vuốt thách thức con người.

Tiếp đến, vẻ đẹp tàn bạo ấy còn được thể hiện qua những “mút” khổng lồ ở dòng sông Tà Mường Vát. Dưới con mắt của Nguyễn Tuân, những xoáy nước “như giếng bê tông” được thả xuống tạo thành móng cầu. Tại đây, anh nhân cách hóa xoáy nước thành một người có thể thở và khóc. Ví dụ về cái cống nghẹt thật sống động và hấp dẫn. Có lẽ, chưa từng có nhà văn nào có khả năng tưởng tượng, so sánh các hình ảnh với nhau độc đáo như cách Nguyễn Tuân đã làm. Có thể nói, nhờ Nguyễn Tuân mà nhiều người dù chưa nhìn thấy mặt sông Đà vẫn cảm thấy dòng sông ở đây vô cùng nguy hiểm. Nó có thể nuốt chửng mọi thứ nên không một con thuyền nào dám lại gần, nếu không sẽ bị hút và chết chìm dưới sông. Thật đáng sợ!

Đặc biệt ở đoạn thác sông Đà, vẻ hung dữ, hiểm độc của dòng sông được tác giả “phơi bày” rõ nét. Ông miêu tả nó bằng những âm thanh và sắc thái cực kỳ mạnh mẽ, quyết liệt như tiếng “khóc gần, hét to hơn”. Anh nghe thấy tiếng nước có lúc như “oan ức”, có lúc như “van xin”, hay đầy “khiêu khích”. Có khi nó rống lên như “một đàn trâu ngàn mộng” vùng vẫy trong lúc rừng rực lửa. Không chỉ vậy, đá ở sông Đà như kết lại với nhau thành một “chân trời đá” mênh mông. Chúng có nhiều dáng vẻ khác nhau như “ngỗ ngược”, “nhăn nheo”, “méo mó”. Nhà văn dùng nhiều tính từ miêu tả con người để biến những viên đá vô tri vô giác trở nên có hồn. Nhớ lại điều đó, người đọc dễ cảm nhận được sự ù lì, cẩu thả của đá. Đến đây, ta có đủ cơ sở để khẳng định rằng, bằng trí tưởng tượng phong phú của mình, nhà văn đã biến con sông Đà bình thường thành một con “thủy quái khổng lồ” với dã tâm hiểm độc. Chính vì thế người dân nơi đây coi nó là kẻ thù số một.

Qua phần phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà, các em có thể thấy, ngoài vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo và dữ dội, dòng sông còn mang trong mình chất thơ trữ tình đầy dịu dàng, e ấp. Vẻ đẹp thiếu nữ ấy được tác giả cảm nhận qua nhiều góc độ, nhiều điểm nhìn khác nhau trong không gian và thời gian khác nhau. Với Nguyễn Tuân, dòng sông Đà từ trên cao nhìn xuống uốn lượn như mái tóc người con gái Tây Bắc đẹp kiều diễm” tuôn chảy như áng tóc trữ tình, tóc và rễ ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc. Hoa ban nở, tháng hai hoa gạo và khói cuồn cuộn núi Mèo đốt ruộng xuân.

Ông không quên miêu tả chi tiết sự thay đổi màu nước theo mùa của dòng sông như “xanh ngọc bích” vào mùa xuân, “đỏ đỏ” vào mùa thu. Không chỉ vậy, trong tưởng tượng của nhà văn, có lúc sông Đà hiền “như một cố nhân”. Anh thấy dòng sông vẫn còn “màu nắng tháng ba” đôi bờ đầy chuồn chuồn, bươm bướm. Từ xa đến gần, từ khái quát đến chi tiết, tác giả không quên miêu tả hai bờ sông như nhuộm màu cổ tích. Cả dòng sông vẫn mang trong mình nỗi nhớ ngày xưa.

Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà không thể không nhắc đến nhân vật người lái đò. Thiên nhiên càng bao la, dữ dội lại càng tôn lên tài năng, đức độ và trí tuệ của người lái đò. Người lái đò ở đây cũng là một người lao động chăm chỉ, cần cù, mạnh mẽ và dũng cảm.

Phẩm chất cao đẹp đó của người lái đò được khắc họa rõ nét qua cảnh vượt thác trên sông Đà. Trước dòng sông đầy rẫy những mánh khóe và nhiều đòn hiểm, người lái đò phải thật tỉnh táo và tự tin mới có thể vượt qua ma trận với ba vòng thử thách của dòng sông. Trước màn “đá chiến” căng thẳng, tài xế vẫn không hề nao núng. Ông vẫn “cầm mái chèo cho khỏi xô”. Mặc cho mặt nước reo hò bẻ lái thuyền, những con sóng như “liều mạng” ập đến “đá gối trái trúng bụng và mạn thuyền”. Mặc cho nước bám vào người anh như một “đô vật” muốn vật anh về nhưng những con sóng như siết chặt lấy thân dưới của anh. Và dù bị thương “méo mặt” nhưng anh vẫn quyết tâm không bỏ cuộc. Anh “cố nén vết thương, chân vẫn bấu chặt vào buồng lái” dẫn con thuyền băng băng qua muôn vàn “hạt vi mô”.

Qua đây, rõ ràng tác giả đã xây dựng hình tượng nhân vật người lái đò bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc trên nhiều lĩnh vực như binh pháp, âm nhạc, võ thuật, thể thao…, đồng thời với các biện pháp tu từ. Các phép nhân hoá, so sánh, câu văn ngắn gọn, súc tích đã làm sinh động thành công nhân vật người lái đò và dòng sông huyền thoại.

Đoạn trích Người lái đò Sông Đà thực sự là một bài tùy bút vô giá. Nó thôi thúc mọi độc giả sau khi đọc xong đều muốn xách ba lô lên và lên Tây Bắc để tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo và trữ tình của vùng sông nước có một không hai này. Đồng thời được trò chuyện với người lái đò để thêm yêu và hiểu những con người dũng cảm nơi đây.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 29

Nhà văn là người dẫn đường cho người đọc đến với miền đất của cái đẹp, bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân dẫn người đọc đến với miền đất của cái đẹp Tây Bắc, ông đến để tìm thấy chất thơ trong thiên nhiên. chất vàng mười trong tâm hồn người dân lao động nơi đây.

Trước hết đó là vẻ đẹp vừa hùng vĩ nhưng cũng rất thơ mộng, dịu dàng của thiên nhiên Tây Bắc, của dòng sông Đà. Sự hùng vĩ dữ dội của sông Đà trước hết là ở chất đá đã xây nên bức tường thành. Ngay ở đây, cách dùng từ của Nguyễn dường như đã làm mê hoặc tâm hồn của cảnh vật. Từ “tường” gợi một cái gì âm u, thâm trầm, huyền bí như một tòa thành cổ, một hào sâu, như một thành trì bất khả xâm phạm. Tiếp đến, những so sánh liên tưởng đến hiện thực về cảm giác lạnh buốt khi ngồi dưới thuyền càng làm cho thiên nhiên và không gian nơi đây hùng vĩ, nhưng đầy lạnh lẽo, bí ẩn vô cùng. Sự kỳ vĩ của sông Đà còn ở trong tiếng gầm của thác: “hàng cây số nước oằn đá, đá đẩy sóng, sóng vỗ ngược gió, quanh năm cuồn cuộn gió gào”, giọng điệu “vừa than thở vừa van xin”. đã khiêu khích “giọng giễu nhại”. Đặc biệt là những nơi hút nước như cống bê tông, đầy nguy hiểm rình rập. Sông Đà hùng vĩ, dữ dội, hung bạo, sự hùng vĩ hung bạo đó của sông Đà khác với sông Hương trong văn chương của Hoàng Phủ, sông Hương hùng vĩ, dữ dội nhưng có vẻ đẹp dữ dội, phóng khoáng như một bản hùng ca xưa. rừng, còn sông Đà mang trái tim của loài thủy quái. Để chế ngự nó và chế ngự nó trên tác phẩm của mình, Nguyễn đã dùng cái ngu để “dùng nước tả lửa, dùng rừng tả sông”, qua đó thấy được sức mạnh, cũng như sự ghê gớm, dữ dội của dòng sông. Đà. Vẻ đẹp của nó, dù dữ dội và hùng vĩ, nhưng cũng đẹp theo cách riêng của nó.

Nhưng bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội, sông Đà còn mang trong nó vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình: “Dòng sông Đà chảy dài như một áng tóc trữ tình, chân tóc em ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, nở như bông lúa tháng hai, đượm mùi khói núi của người Mèo đốt nương xuân”. Chỉ bằng một từ thôi cũng thấy hết tài năng và sự chắt lọc tâm hồn tinh tế của Nguyễn Tuân, ông luôn nhìn sự việc dưới góc độ văn hóa nghệ thuật, đây là minh chứng cho điều đó. Xưa nay người ta chỉ nói đến thơ, văn, tóc chứ mấy ai gọi là tóc bao giờ? Thế nên, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông Đà bỗng mang trong mình vẻ trang nghiêm, nét riêng của một tác phẩm nghệ thuật, không chỉ đẹp mà còn duyên dáng, mềm mại, tràn đầy nhựa sống, sức sống xanh tươi như bừng nở trên mảnh đất kinh kỳ. đất nước này. Nét thơ trữ tình ấy là tất cả tài năng và nội lực của ngòi bút Nguyễn Tuân gửi gắm vào trang văn, qua đó dẫn dắt người đọc đến với xứ sở của cái đẹp.

Nếu trên đây là vẻ đẹp của sông Đà vừa hùng vĩ, dữ dội lại vừa thơ mộng, trữ tình thì bên cạnh đó, Nguyễn Tuân trong “Người lái đò sông Đà” cũng đào sâu để tìm chất vàng mười trong tâm hồn mình. người dân Tây Bắc, nơi có thể nhìn thấy rõ nhất hình ảnh người lái đò. Con sông Đà có lúc hung dữ như muốn ăn tươi nuốt sống những người lái đò qua đây, thế nhưng, người lái đò vẫn dùng hết sức lực để chế ngự nó. Người lái đò tài giỏi, vô cùng dũng cảm, đầy mưu lược và tài ba đã chiến thắng được con thủy quái chết chóc này. Tuy nhiên, ngay sau khi dừng chèo, anh lại trở về với cuộc sống giản dị, bình lặng, không khoe khoang hay tự hào về thành tích của mình. Hình ảnh anh lái đò tài hoa, qua đó phần nào thể hiện sự vận động trong cách nhìn của Nguyễn Tuân về con người. Trước anh chỉ thấy cái đẹp ở những con người đặc biệt, nay anh thấy vẻ đẹp bình dị, lung linh của người dân lao động trong cuộc mưu sinh, anh đã đi từ chốn tháp ngà nghệ thuật để đến gần hơn với cuộc sống của người dân lao động, hòa nhập với hơi thở của cuộc sống mới. Đó cũng là lí do mà Nguyễn Tuân trong “Người lái đò sông Đà” làm ấm lòng biết bao người đọc.

“Người lái đò sông Đà” là một kiệt tác của Nguyễn Tuân, là trang hoa không ngủ trong dòng chảy văn học Việt Nam, qua đó một lần nữa ghi dấu ấn riêng của Nguyễn Tuân vào lịch sử văn học nước nhà.

Phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu 30

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ông là một cây bút tài hoa, uyên bác, có phong cách nghệ thuật độc đáo, có tình cảm thiết tha với cuộc sống và truyền thống của nhân dân. sắc tộc. Nguyễn Tuân suốt đời đi tìm cái đẹp và dùng ngòi bút của mình để phục vụ cái đẹp chân chính trong cuộc đời này. Bài tùy bút Sông Đà thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật đó của Nguyễn Tuân.

Hình ảnh sông Đà với những nét tương phản rõ nét: Tác giả nhân cách hóa con sông Đà: như một con người có tâm hồn, hoạt động, tâm trạng và hai nét tính cách đối lập. Hình ảnh con sông Đà hung bạo: Cái đáng sợ nhất của sông Đà là những ghềnh thác. Thượng nguồn con sông nào cũng có thác ghềnh, nhưng thác sông Đà là kỳ dị và đáng sợ nhất. Nguyễn Tuân đã miêu tả tỉ mỉ từng thác nước một như thể chỉ đích danh chúng.

Trước hết là ghềnh Hát Loong dài hàng cây số nước, đá, sóng, sóng. Sóng gió quanh năm như luôn đòi nợ, dễ làm lật bụng thuyền. Cũng giống như vùng Tà Mường Vát dưới Sơn La, cũng giống như bao con thác khác.

Nó không chỉ là nước. Trong đó, có cả những cửa lấy nước giống như chiếc giếng bê tông được thả xuống sông để chuẩn bị đổ móng cầu. Nước ở đây thở nghe như tiếng hố ga bị nghẹt. Trên đỉnh hút xoáy đáy; còn quay tít bên bầy quạ thật hãi hùng. Các giếng sâu phồng lên như dầu sôi vừa được đổ vào.

Nó nguy hiểm đến nỗi không một chiếc thuyền nào dám đến gần cái hút đó. Nhiều bè gỗ bơi ngang qua rừng, vô tình kéo họ xuống khỏi giếng hút. Có thuyền bị lực hút hút xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi lặn mất tăm, chìm xuống lòng đất đến mười phút sau thì xác tan biến ở hạ lưu sông.

Tiếng nước chảy ầm ầm là âm thanh ấn tượng nhất của núi rừng Tây Bắc. Vẫn còn một quãng đường dài để đến thác nước phía dưới, nhưng người chèo thuyền đã thấy tiếng nước ngày càng gần hơn. Tiếng nước được hình dung nghe như một lời phàn nàn, rồi như một lời cầu xin, rồi như một lời khiêu khích, một giọng chế nhạo.

Rồi nó rống lên như tiếng đàn trâu ngàn mộng nép mình giữa rừng trúc và rừng trúc bừng bừng lửa cháy rừng rực, rừng lửa gầm lên cùng đàn trâu đang thiêu đốt. Những bọt nước trắng xóa cả một khúc sông phía dưới. Sau đó tung quân và bố trí dàn trận, chỉ để phá hoặc nuốt chửng những chiếc thuyền đi qua đây.

Sự hùng vĩ của Sông Đà không chỉ có thác đá. Nhưng đó cũng là cảnh bãi đá dựng bờ sông, cảnh mặt sông nơi mặt trời chỉ mới giữa trưa. Có những vách đá chắn ngang lòng sông Đà như một cái họng. Đứng ở bờ bên này nhẹ nhàng ném hòn đá qua bờ tường bên kia. Có lần một con hươu và một con hổ nhảy từ bờ này sang bờ khác. Ngồi trên chuyến đò qua quãng đường ấy, đang là mùa hè mà tôi thấy lành lạnh, tôi có cảm giác như mình đang đứng giữa hè trong một con ngõ và nhìn lên khung cửa sổ ở tầng lầu nào vừa tắt đèn điện.

Cách miêu tả chân thực, hơi cường điệu với sự liên tưởng tài tình gây ấn tượng mạnh về độ cao hấp dẫn. Với những thác nước và vách núi cheo leo, dòng sông đầy đá nổi, đá chìm và những dòng thác dữ dội khiến sông Đà lộ rõ ​​dã tâm của một kẻ thù số một. Bằng nghệ thuật miêu tả tài hoa, ngôn ngữ tạo hình đặc sắc, cấu trúc trùng điệp, giọng văn khỏe khoắn, vận dụng kiến ​​thức của nhiều ngành khoa học như địa lý, điện ảnh để đưa ra hàng loạt so sánh, liên tưởng. Thật lạ lùng, thật bất ngờ, Nguyễn Tuân đã tái hiện hình ảnh con sông Đà dữ dội, dữ dội và hiểm trở trong nhiều lần xuất hiện.

Bên trong sự hung dữ ấy, sông Đà còn nổi bật lên như một biểu tượng cho sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc và đất nước. Nguyễn Tuân là một thiên tài trong việc sử dụng ngôn từ, ông đã tận dụng mọi cơ hội để phát huy hết sức mạnh của mình, cưỡng bức sự hung dữ, hào hùng của dòng sông để sống và thể hiện. hình ảnh và đã phải hét lên trên dòng viết.

Nguyễn Tuân đã làm cho những trang viết của mình lung linh nhờ những cái đẹp được ông vay mượn từ nhiều ngành, lĩnh vực trong và ngoài nghệ thuật để tạo nên hàng loạt so sánh, liên tưởng, liên tưởng lạ lùng. khó đoán: Người đọc phải ngạc nhiên khi nghe “tiếng nước ở đây thở và kêu éc éc như cái miệng cống bên trái bị nghẹt”, và “khục khục như vừa đổ dầu sôi vào”.

Trí tưởng tượng xuất thần của người viết về cú lia ngược của máy ảnh “bức tường giếng xây hoàn toàn bằng nước sông xanh với lớp kính đúc dày… sắp vỡ tan và đập vào cả máy quay lẫn người xem”. Ngạc nhiên và khâm phục hơn khi ông dám dùng lửa để tả nước, lấy hình ảnh “chiếc xe sang số nhấn ga” trên quãng đường “mượn cái cạp ra khỏi vách núi” để so sánh với cách chèo thuyền. Để có được những hình ảnh hấp dẫn như vậy chứng tỏ nhà văn đã không ngại quan sát kĩ lưỡng, nghiên cứu kĩ lưỡng để nhận ra sự tàn bạo thực sự.

Hình ảnh con sông Đà trữ tình, thơ mộng: Tuy nhiên bên cạnh con sông Đà dữ dội, dữ dội ấy còn có một con sông Đà rất đẹp và thơ mộng. Đó là một phát hiện lớn của Nguyễn Tuân về non sông đất nước. Anh biết nhìn nó ở mọi góc độ, mọi khía cạnh, mọi thời điểm để tìm ra vẻ đẹp tiềm ẩn trong đó mà khó nhận thấy hoặc không có cơ hội nhận thấy. Như ông đã viết trong tác phẩm: “Tôi đã mấy lần bay ngang Sông Đà, và thấy nó cho tôi thêm một góc nhìn, một cách nhìn về dòng sông Tây Bắc hung bạo mà trữ tình”.

Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà phải ở một tầm cao đặc biệt, một điểm nhìn đặc biệt mới có thể thấy rõ hết. Phải ở trên cao nhìn xuống. Nó phải vượt qua sự dữ dội của nó để thấy nó cũng dịu dàng, và cũng duyên dáng để yêu và say mê nó. Phải nhìn từ trên cao mới thấy: “Dòng sông Đà chảy dài như áng tóc trữ tình, tóc và rễ ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, tháng hai hoa nở, cuồn cuộn khói. Mùa xuân mèo đốt nương.” . Đó chính là vẻ đẹp uyển chuyển, uyển chuyển, mềm mại và thơ mộng mà đất trời đã ban tặng cho dòng sông kỳ vĩ ấy. Và phải với con mắt của một người hết lòng yêu thương thì mới thấy nó đẹp đến diệu kỳ.

Ngắm nhiều, ngắm nhiều, ngắm kỹ, Nguyễn Tuân phát hiện: “Mùa xuân nước suối xanh màu ngọc bích, nhưng nước Sông Đà không xanh như màu sông Gâm Sông Lô. Mùa thu, nước sông Lô Sông Đà Lư đỏ như da mặt người bầm tím vì rượu, đỏ giận người bất bình mỗi lần nổi giận.” Sự so sánh màu sắc làm cho dòng sông thể hiện vẻ đẹp riêng của mỗi mùa.

Có lẽ, Nguyễn Tuân đã phải nhìn đi nhìn lại nhiều lần trước khi kết luận: “Sông Đà gợi cảm” như một nhận định không thể sai. Ông cũng từng nói: “Với mỗi người, Sông Đà gợi một lối đi”. Ông không bào chữa cho quan điểm của mình. Anh cứ nhìn thẳng về phía trước, nói sự thật những gì anh đã thấy và cảm nhận.

Sông Đà dưới con mắt của Nguyễn Tuân long lanh ánh bạc phản chiếu. Gương sáng lấp lánh nắng tháng ba. Để rồi khi gặp lại dòng sông Đà, lòng thấy ấm áp, êm đềm như gặp lại người bạn cũ, nỗi nhớ nhung khôn nguôi. Đó là toàn bộ sông Đà khi nhìn từ trên cao. Khi đi đò, sông Đà hiện lên gần gũi, thân thiết. Khi thuyền cập bến, trời đã yên ắng, “cảnh sông nước ở đây vắng lặng” chứ không còn ồn ào náo nhiệt nữa.

Rồi “một ruộng ngô nhú vài lá ngô non đầu mùa” hiện ra trước mắt. Tiếp theo, “cỏ đồi núi đang đâm chồi nảy lộc. Đàn nai cúi đầu ăn đọt cỏ đẫm sương đêm” thật yên bình như nơi đây chưa hề có dấu chân người. Cuối cùng, tác giả khẳng định chắc nịch: “Bờ sông hoang sơ như một bãi tiền sử. Bờ sông là ngây thơ như một câu chuyện cổ tích xưa.

Biện pháp so sánh có sức gợi sâu sắc đã khắc họa vẻ đẹp hoang sơ và những dấu ấn văn hóa cổ xưa của ông cha ta. Dường như có một dòng chảy bất tận từ những câu chuyện cổ tích hàng ngàn năm cho đến ngày nay. Ngôn từ của Nguyễn Tuân vừa cổ kính, vừa trang nghiêm, vừa hiện đại.

Bằng những so sánh độc đáo gợi tả, gợi tả, ấn tượng, giọng văn nhẹ nhàng, câu văn dài mềm mại, âm điệu êm dịu, hình ảnh dòng sông hiện lên thật trữ tình, thơ mộng. Thành công đó là kết quả của quá trình lao động miệt mài, nghiêm túc, cần mẫn và kiên nhẫn của nhà văn.

Nhà văn ca ngợi vẻ đẹp, sự hùng vĩ, hào hùng, trữ tình và nên thơ của thiên nhiên, ca ngợi chất vàng mười của thiên nhiên. Qua đó thể hiện tình yêu tha thiết, thiết tha của nhà văn đối với quê hương nói chung và thiên nhiên Tây Bắc nói riêng. Mỗi câu có đường nét, có hình và có màu, có so sánh, có cảm, như hát đồng điệu.

Lúc đầu cao độ, dài nhanh, về cuối dường như thấp dần và chậm lại, trải dài ra, lan tỏa trong không gian vô tận. Không phải tác giả văn xuôi nào cũng làm được như Nguyễn Tuân, tạo nên một không gian trữ tình đủ khiến người đọc say lòng, ngây ngất, yêu cuộc sống này đến thế. Nhà văn đã có sự biến hóa trong bút pháp khi miêu tả hai nét tính cách đối lập của dòng sông này. Đó cũng chính là mục đích của nhà văn khi tái hiện hình ảnh một dòng sông hùng vĩ, thơ mộng và trữ tình.

Không chỉ tập trung tái hiện hình ảnh con sông Đà, Nguyễn Tuân còn miêu tả kĩ lưỡng hình ảnh người lái đò xưa thường đi qua con sông ấy trong cuộc chiến đấu ác liệt với dòng sông. Người lái đò xuất hiện với vẻ ngoài ấn tượng. Hai cánh tay anh dài như một cây sào. hai chân lúc nào cũng cong như đang kẹp một vật gì vô hình. Rõ ràng, công việc hàng ngày của anh ấy đã tạc nên hình dáng của anh ấy đến mức không thể rời bỏ hay thay đổi nó. Hình ảnh đó cũng là hình ảnh tiêu biểu của những người như ông ở vùng đất ác liệt này.

Người lái đò cũng có thị lực phi thường. Nhìn mặt nước, hắn liền biết bên dưới ẩn chứa cái gì. Nó không thể đánh lừa bạn. Giọng anh cũng to. Đầu anh cau có như người bước ra từ sử thi. Trên ngực anh có một vết sẹo lớn mà anh rất tự hào. Cuộc sống trên sông nước in sâu vào từng chi tiết trên cơ thể anh. Những thử thách, gian nan, hiểm nguy đã in sâu vào tâm trí anh.

Sau mấy chục năm ngược xuôi sông Đà, người lái đò vẫn “nhớ tỉ mỉ như búa bổ vào lòng mọi con suối, mọi ngọn thác nguy hiểm” nên rất tin tưởng. Ông cũng là người có tài leo ghềnh, vượt thác. Qua cách miêu tả của Nguyễn Tuân, người lái đò hiện lên như một hiệp sĩ của núi rừng. Cả tư thế và tư thế đứng trên hoàn cảnh. Với cách miêu tả đó, người đọc nhận thấy người lái đò có đủ sức mạnh và lòng dũng cảm để khuất phục và chế ngự dòng sông hung dữ và bướng bỉnh.

Hình ảnh người lái đò hiện lên trực tiếp qua lời giới thiệu của tác giả trong trận chiến sinh tử với sông Đà. Anh đã trải qua cả trăm lần chứ không phải lần đầu thử sông. Anh rèn luyện trí nhớ rất cao và không cho phép mình phạm sai lầm. Sử thi anh hùng ca mà anh thuộc cả dấu chấm. Anh cũng không thích chèo thuyền trên mặt nước phẳng lặng. Những thứ dữ dội và nguy hiểm luôn khiến anh thích thú.

Cuộc đời của người lái đò Sông Đà quả thực là cuộc chiến hàng ngày với thiên nhiên chỉ để “giành sự sống từ tay mình thành tay mình”. Trong cuộc chiến đó, ông nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Anh đã thuộc quy luật mai phục của những tảng đá trong đoạn đường hiểm trở này và nắm được quy luật tất yếu của nước sông Đà. Dòng sông ấy, dù ẩn chứa điều gì trong đó, anh đều hiểu hết.

Bằng nét khắc tỉ mỉ, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật chân dung người lái đò từng trải, mang đậm dấu ấn của nghề, một người có trí nhớ cao. Cách so sánh hấp dẫn cho thấy tài quan sát, hiểu đối tượng của ông lái đò cùng sự tự tin, điềm tĩnh nhưng không kiêu ngạo.

Qua cách miêu tả của Nguyễn Tuân ta thấy sự đối lập giữa người lái đò và dòng sông Đà quá lớn. Anh lái đò thấp bé, không phép lạ, không binh khí. Anh chỉ có một tay cầm mái chèo mỏng manh, đứng trên một chiếc thuyền đơn độc và băng qua dòng nước đầy cạm bẫy. Và thiên nhiên Tây Bắc quá tuyệt vời. Nước hung bạo và độc ác với sức mạnh thần thánh. Nó có tất cả các loại vũ khí, chiến thuật và chiến thuật cực kỳ mạnh mẽ.

Nếu nhìn vào sự chênh lệch đó, quả thực người lái đò đang phải đối mặt với một thế lực thần thánh, không có cơ hội chiến thắng. Đó cũng chính là điều mà Nguyễn Tuân muốn gợi lên trong tâm trí người đọc để rồi bất ngờ cho thấy sự lợi hại phi thường của ông lái đò năm xưa trong dòng thác đổ sau đó.

Mở đầu đoạn thác tác giả có đoạn tả cảnh thác nước. Đầu tiên là tiếng thác đổ ầm ầm với đủ thứ âm điệu rùng rợn. Điều đó chắc chắn khiến những bộ óc tỉnh táo và dũng cảm nhất cũng phải run sợ: “Còn lâu mới xuống được thác phía dưới. Nhưng tôi thấy tiếng nước mỗi lúc một gần hơn. Tiếng thác nghe như một lời phàn nàn, rồi van xin, rồi khiêu khích, giễu cợt. Rồi nó rống lên như tiếng đàn trâu ngàn mộng nép mình giữa rừng trúc và rừng trúc bừng bừng lửa phá rừng lửa, rừng lửa rống theo bầy trâu đang thiêu đốt”.

Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, thác sông Đà trông như một con thú cổ hung dữ và kỳ quái. Nó sắp nuốt chửng mọi thứ dám đến gần nó. Anh ta cực kỳ đói và khát và không gì có thể ngăn anh ta trở nên mãnh liệt như vậy. Càng đến gần, bạn càng sợ hãi. Dòng sông không chỉ có vẻ ngoài đáng sợ mà thực chất nó ẩn chứa những nguy hiểm chết người.

Bên dưới những “sóng tung bọt trắng xóa” là “cả một chân trời đá”. Không chỉ đá ngầm, đá tảng mà chúng còn “mai phục cả dưới lòng sông”. Mỗi khi thuyền nhô ra khúc sông, một số cù lao nhô lên vồ lấy, xé nát những chiếc thuyền độc mộc mong manh.

Hình ảnh những viên đá tinh nghịch hiện lên một cách rất phóng túng và khiêu khích. Nhìn vào, hòn đảo nào cũng nhăn nheo, méo mó hơn so với mặt nước nơi đây. Họ đứng hoặc nằm tùy theo sở thích tự động của đá lớn và đá nhỏ. Chính vì trật tự lộn xộn và tùy tiện đó, chúng khiến mặt sông rung chuyển như tuabin thủy điện dưới đáy đập. Mặt sông trắng xóa càng làm nổi rõ những tảng đá mới hình như trong đó.

Nhưng không phải vậy. Sông Đà đã giao việc cho từng đảo với một trình tự nhất định. Mới thấy đây là nó bày mảng đá trên sông. Đám tang chia thành ba hàng qua sông. Hàng tiền vệ, có hai cửa đá và một cửa đá. Hai người đóng vai trò nhử thuyền đối phương tiến sâu hơn vào giữa, vào giữa. Sau đó, có dòng của hai con sóng nước và kênh giữa các đối tượng của con thuyền.

Thuyền vào đây rồi khó quay lại. Dòng nước cứ đẩy thuyền tiến lên, lắc lư, lắc lư, xô đẩy, tránh những tảng đá sắc nhọn trên dòng ba như một pháo đài nổi sẵn sàng công phá con thuyền ngay dưới chân thác. Với nhãn quan kỳ diệu của mình, người lái đò đã phân tích các thế đá, thấy rõ cửa sinh tử rồi tiến lên. Mỗi ngọn thác là một cuộc chiến sinh tử thực sự. Một sơ hở là một mối nguy hiểm ngay lập tức. Con ma bước vào. Trận chiến đã chính thức bắt đầu.

Vòng 1: Dòng thác dữ dội đón thuyền rất trang trọng với những khối đá và nước. Mảng đá vừa xếp xong thì thuyền lao tới. Kết hợp với đá, thác nước reo vui làm thanh cho đá, bệ uy nghi, hùng vĩ. Họ ngạo mạn, giễu cợt, thách thức người lái đò. Một trong những tảng đá đó trông có vẻ nghiêng, như thể đang yêu cầu con thuyền phải báo danh trước khi xung trận.

Hòn đảo khác lùi lại một chút và thách thức chiếc thuyền tốt đến gần. Nhưng điều đó không làm người lái đò bận tâm. Họ chỉ là những người lính để đánh lạc hướng. Người chèo thuyền hai tay giữ mái chèo khỏi bị sóng đánh văng thẳng vào người. Nước ầm ầm bao quanh anh, ập vào và làm gãy mái chèo của vũ khí trên cánh tay anh.

Con thuyền chao đảo về phía trước. Những con sóng như thể một người lính tuyệt vọng đang thức giấc, giật mạnh, lắc lư hòng lật thuyền. Đôi khi họ đặt cả thuyền lên. Không những thế, nước còn bám vào thuyền như dồn, ngoạm vào eo người lái đò để yêu cầu anh ta lật úp mình giữa dòng nước giông bão. Chúng không chỉ hung dữ mà còn rất hiểm độc, không chừa bất kỳ thủ đoạn hay chiêu thức nào. Sóng đánh một đòn hiểm hóc nhất, cả dòng nước bất lực siết chặt lấy háng người lái đò.

Nhưng người lái đò cố nén vết thương, hét lên giọng chỉ huy ngắn gọn và tỉnh táo, chân vẫn bấu chặt vào cần lái, mặt méo xệch như sóng vỗ tới lui, tỉa tót, tiêu cực. Vậy là đợt vi khuẩn đầu tiên đã bị tiêu diệt. Trận đấu đầu tiên chỉ mới khai mạc, nhưng đã ác liệt một cách đáng sợ. Người bình thường không thể vượt qua con tàu đã sớm bị xé nát ở đây. Tuy nhiên, với tài năng và lòng dũng cảm của người lái đò, con thuyền ra khơi không hề hấn gì. Người lái đò hiện lên như một vị tướng tả xung hữu đột, điềm tĩnh, dũng cảm và tự tin, chiến đấu và chiến thắng.

Vòng 2: Ngay khi kết thúc vòng 1 là đến ngay vòng 2. Không một phút nghỉ ngơi, anh phải phá vòng vây thứ hai và thay đổi chiến thuật. Trong vòng vây này là một mảng đá được tổ chức vô cùng chặt chẽ. Mỗi viên đá là một mối nguy hiểm ghê gớm. Chúng xoay chứ không nằm yên và được bao phủ và hỗ trợ bởi mặt nước, khiến chúng càng trở nên nguy hiểm hơn.

Tuy nhiên, người lái xe đã nắm chắc chiến thuật của thần sông, thần đá. Anh đã quen với quy luật phục kích của những tảng đá ở vùng nước nguy hiểm này. Nếu như vòng một mở năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm ở tả ngạn sông, thì vòng hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa thuyền vào. Cổng sinh được bố trí lệch sang hữu ngạn. Con thuyền không thể lùi bước vì bất cứ lý do gì. Các tài xế cho rằng “đã lên thác Sông Đà thì phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ”.

Không đánh được thuyền trong lượt đầu tiên, dòng sông vô cùng tức giận. Họ có nền kinh tế mạnh mẽ để theo đuổi. Anh gạt họ sang một bên. Nắm chắc bờm sóng đi đúng hướng, người lái đò nắm chặt tay lái, nắm chắc đúng dòng nước, lao nhanh vào cửa sinh, lái xéo về phía cửa đá. Cửa sinh tuy mơ hồ, hư ảo nhưng với kinh nghiệm nhiều năm vượt thác, ong cảm thấy nó nằm ở hướng đó. Bốn năm sau, hải quân bên trái cửa khẩu Liên Xô kéo thuyền ra kéo vào nhóm tử thần. Người lái đò còn nhớ mặt họ. Tất cả đều quá quen thuộc vì anh nhìn thấy chúng hàng ngày.

Tại đây, anh lái xe thể hiện tài năng và sức mạnh chinh phục của mình. Những người ở xa, anh tránh và chèo lên. Nếu có ai đến gần, anh ta sẽ đè xuống và cắt đôi để mở đường. Những viên đá không thể làm gì được, anh ta quay mặt nhăn nhó, trừng mắt thách thức.

Cuối cùng, những dòng chết đều bị bỏ lại phía sau con thuyền. Chỉ có thể nghe thấy âm thanh của sóng sông và dòng chảy của cuộc sống. Họ không ngừng khiêu khích, mặc cho anh chàng mảnh khảnh đứng ở lối vào mặt tái nhợt vì thất vọng, thua con thuyền đã đâm vào cổng. Con thuyền đã vượt qua vòng thứ hai một cách an toàn. Chỉ qua khu vực bãi đá nông nhưng lại là khu vực nguy hiểm nhất vì đá nằm ẩn mình trong nước. Không có kinh nghiệm, không có kinh nghiệm, đã từng bị đánh đi đánh lại nhiều lần thì không thể thuộc sông đến thế.

Với trí tưởng tượng và vốn từ phong phú, đặc biệt là kiến ​​thức quân sự: cách bày binh bố trận, Nguyễn Tuân đã tạo nên một đoạn văn đầy khí thế chiến đấu và sống động.

Vòng 3: Có vây thứ ba. Vòng ba có ít cửa hơn, bên phải và bên trái đều là dòng chết. Nhưng người lái xe biết rằng các luồng trực tiếp ở chặng thứ ba này nằm ngay giữa những người bảo vệ thác nước. Vừa hạ thủy thuyền, vừa đục thủng cửa giữa. Tuy nhiên, nó không phải là đơn giản. Họ không cho người lái đò vào đó. Họ càng tạo ra nhiều cánh cửa, lôi kéo con thuyền càng nhiều càng tốt.

Không để bị chúng dụ dỗ, anh lái thuyền đi qua cánh cổng đá đóng mở. Bay vút, bay vút, cửa ngoài, cửa trong, cửa trong cùng, con thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua làn hơi nước, vừa xuyên qua từ bánh lái đang lướt. Con thuyền thoát nạn. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Vòng thứ ba này chỉ kéo dài trong vài giây. Nếu bạn đến đây, bạn sẽ thất bại như một con thuyền. Thất bại ở bất kỳ cổng nào trong cầu vượt đó sẽ dẫn đến hậu quả thảm khốc. Tuy nhiên, thất bại ở cửa số ba là một điều ô nhục đối với bất kỳ người chèo thuyền nào.

Hệ thống từ tượng hình, từ tượng thanh, nghệ thuật so sánh, nhiều câu văn gãy gọn để diễn tả những chuyển động trong cùng một khoảng thời gian của người lái đò. Nguyễn Tuân dường như đã vắt hết sức lực để thể hiện thành công bản chất mạo hiểm và tinh thần quả cảm, ý chí chín chắn, tinh thông trong nghề trèo ghềnh, vượt thác của người lái đò. Ông lái đò là biểu tượng chính cho tài năng của người nghệ sĩ như Nguyễn Tuân đã quan niệm: Dù làm nghề gì, người nào tỏ ra tài hoa, khéo léo, điêu luyện trong nghề thì người đó là nghệ sĩ.

Bằng lối miêu tả trực quan, kết hợp nhiều yếu tố điện ảnh, lối kể chuyện hồi hộp giàu kịch tính, với góc nhìn của một nhà địa lý chính xác, một nhà quân sự tài ba, nhà văn đã làm nổi bật những trận chiến khốc liệt nhưng cuối cùng con người đã chiến thắng được sức mạnh thần thánh. của thiên nhiên. Đó là sự kỳ diệu của sức lao động của con người. Bí quyết chiến thắng của con người không có gì bí ẩn.

Chính sự ngoan cường, quyết tâm và đặc biệt là kinh nghiệm sông nước, thuyền bè đã giúp người dân nắm vững chiến thuật của thần sông, thần đá. Bí quyết ấy chính là những yếu tố tạo nên “chất vàng mười” của người dân Tây Bắc và của người lao động nói chung. Qua đó nhà văn ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động vẻ vang đã đưa con người đến chiến thắng vẻ vang.

Trong con mắt của Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng nhưng con người Tây Bắc mới thật xứng đáng là “vàng mười” của Tổ quốc. “Vàng mười” là để gọi tên những vẻ đẹp và giá trị quý giá của người dân lao động. Những con người được ví như khối vàng mười chỉ là những người lái đò nghèo khổ, trên thân thể còn in dấu vết khắc nghiệt của công việc chèo đò vô cùng gian khổ, gian khổ và nguy hiểm.

Tất cả những người lái đò trong bài tiểu luận này, không có ngoại lệ, đều làm việc lặng lẽ, giản dị, hoàn toàn ẩn danh vì tác giả từ chối nêu tên họ. Nhưng những con người vô danh đó đã trở nên vĩ đại, nhờ lao động và đấu tranh chinh phục thiên nhiên.

Người lái đò Sông Đà là một bài thơ hay được làm từ tình yêu đất nước tha thiết của một người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ, hào hùng, trữ tình và thơ mộng của thiên nhiên. Tuy nhiên, đặc biệt là của những người dân lao động bình thường ở Tây Bắc. Tác phẩm còn thể hiện sự lao động nghệ thuật miệt mài, cùng với tài năng, sự uyên bác của nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc sử dụng ngôn từ để tái hiện những điều kỳ diệu của tạo hóa và những điều kỳ diệu của con người lao động. .

******************

Bên cạnh phần Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà, bài viết Phân tích hình tượng người lái đò trong bài văn Người lái đò sông Đà hay So sánh cảnh cho đoạn văn và cảnh vượt thác Sông Đà cũng là những tài liệu tham khảo hữu ích giúp đỡ. các em trau dồi, nhằm củng cố kiến ​​thức Ngữ văn lớp 12.

Đăng bởi: THPT Lê Hồng Phong

Thể loại: Giáo dục

Related Posts

đề thi học kì 2 toán 7

Bạn đang xem bài viết ✅ Bộ đề thi học kì 2 môn Toán 7 năm 2022 – 2023 sách Đề thi cuối học kì 2 môn…

đề thi thử thpt quốc gia 2020 môn anh

MAX ĐIỂM PHẦN 5 TOEIC – TOPIC 5 Buổi 2 MAX ĐIỂM PHẦN 5 TOEIC – TOPIC 5 Buổi 2 22 đề thi thử THPT Quốc gia…

giàu sang hay nghèo khó dù có cao sang thấp hèn

Khám phá bài viết bói giàu nghèo với nội dung tốt nhất. Muốn Biết May Mắn, Giàu Sang, Nghèo Cả Đời Chỉ Cần NHÌN CỔ TAY 3…

đông máu và nguyên tắc truyền máu

pgdsonha.edu.vn giới thiệu Lời giải Vở bài tập Sinh học lớp 8 bài 15: Đông máu và nguyên lý truyền máu lớp 8 chi tiết và chính…

thử thách cực hạn nhậm gia luân lưu vũ ninh

Nếu bạn đang tìm kiếm Top 10 bộ phim Trung Quốc dự kiến ​​phát sóng năm 2023, hãy để Nội thất UMA gợi ý cho bạn qua…

toán lớp 5 ôn tập về giải toán

4.8/5 – (68 phiếu) Mỗi năm học cuối cấp của mỗi học sinh khiến cha mẹ và thầy cô lo lắng, trăn trở. Làm thế nào để…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *