Viết Văn: Luyện tập chữa lỗi lập luận trong bài văn nghị luận
Câu 1 + 2: Phát hiện và sửa lỗi
Một. Cái sai của đoạn văn này là lí lẽ và dẫn chứng (luận cứ) không đi đôi với nhau. Dùng từ thừa, đặt câu chưa chặt chẽ.
+ Luận điểm: “Tục ngữ, ca dao cung cấp cho ta những hiểu biết, kinh nghiệm sống, tác động mạnh mẽ đến tâm hồn con người”.
+ Không tương thích với các dẫn chứng: Chẳng hạn câu: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa – Bay cao thì nắng, khi vừa thì râm” là một cách dự báo thời tiết của nhân dân ta.
– Sửa là:
Tục ngữ cho ta hiểu về cách ứng xử và đấu tranh của con người trong xã hội. Mặt khác, tục ngữ còn phổ biến kinh nghiệm, qua nhận định thực tế: “Con chuồn chuồn… râm”.
b. Sai lầm là: Sử dụng quan hệ từ không đúng nghĩa. Nếu nó được sử dụng, nó không chỉ nên kết hợp mà còn.
– Sửa là:
Chàng thanh niên trong Lặng lẽ Sapa của Nguyễn Thành Long không chỉ đam mê công việc mà còn lạc quan, yêu đời. Anh ấy cũng khao khát mọi người … một cách lạc quan.
c. Lỗi giữa đối số được nêu ra và đối số không khớp
– Sửa là:
Truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân thể hiện sức mạnh của con người trước những hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống.
Họ nương tựa vào nhau khi cái đói và cái chết đe dọa. Cô con gái vui vẻ đồng ý theo Tràng về làm vợ mà không đòi hỏi gì.
Hai vợ chồng Tràng dắt nhau về xóm trọ kể cho nhau nghe những câu chuyện không đầu không cuối, qua những lời trách móc, những cử chỉ yêu thương… trước con mắt ngơ ngác của mọi người.
Bà Tư vui vẻ đón dâu và con. Không khí trong gia đình ấm lên. Nó xua tan nỗi cô đơn của cảnh góa bụa, mồ côi. Nó bừng sáng với ánh sáng của niềm vui, hạnh phúc. Đây là sự thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm.
đ. Lỗi: Nêu lí do và dẫn chứng không phù hợp với lập luận: “Sóng từ đâu đến, sóng đi đâu? Bởi vậy Xuân Quỳnh đã so sánh tình yêu của mình với sóng to và êm.” Chính Xuân Quỳnh đã hóa thân vào sóng để bày tỏ tình yêu của mình.
– Sửa là:
Sóng từ đâu đến và sóng đi về đâu? Xuân Quỳnh như hóa thân vào sóng để bày tỏ tình yêu của mình:
Con sóng dưới lòng sâu ... Cả trong mơ còn thức
đ. Mắc lỗi giữa luận điểm và luận cứ không khớp nhau và đôi chỗ dùng từ.
– Sửa là:
Lòng trắc ẩn của Nguyễn Du bao trùm toàn bộ tác phẩm Kiều. Mỗi đoạn trích của truyện đều thể hiện tấm lòng đó của Nguyễn Du. Chàng thương nàng Kiều mà phải bán mình chuộc tội cho cha và em. Ông than phiền khi Kiều “hai lần lau, thanh lau hai lần”. Chàng cảm thông, chia sẻ với Kiều. Ta càng hiểu vì sao Truyện Kiều đã đạt đến đỉnh cao của chủ nghĩa nhân văn.
g. Lỗi: lập luận thiếu tập trung, lan man
– Sửa là:
Cây bỏng là biểu tượng cho người dân Soman.
Qua hình ảnh cây mâm xôi trúng đạn, dân làng như dân Xô Man bị giặt giũ, giết sạch. Sức sống của cây chòe lửa “Đứng lên đón ánh sáng mặt trời…như chim rụng lông. Súng thần công không giết được. Đó là sự nhân cách hóa của người dân Tây Nguyên kiên cường chống giặc. Kẻ thù không sợ” bên cạnh một cái cây … phát triển lớn. Nguyễn Trung Thành muốn khẳng định rằng các thế hệ nhân dân Xô Man nối tiếp nhau vùng lên đánh giặc giữ làng.
Những quả đồi nối tiếp nhau “tới chân trời” là biểu tượng cho lực lượng của cách mạng miền Nam sau ngày đồng khởi.
H. Lỗi: Lập luận rời rạc, lập luận không mạch lạc. hùng biện chung.
– Sửa là:
Văn học dân gian có giá trị nuôi dưỡng tâm hồn con người.
Các tác phẩm văn học dân gian đều hướng con người đến sự kết hợp giữa tài năng và trí tuệ, cái đẹp và cái thiện.
Cô Tấm phải sống đi chết lại nhiều lần để cuối cùng được làm người, giết kẻ thù và giành lại hạnh phúc.
Thạch Sanh còn là hiện thân của một người lao động giỏi giang, dũng cảm và lương thiện, bị mẹ con Lý Thông gian ác, tham lam lừa gạt nhưng cuối cùng vẫn làm tỳ thiếp nối ngôi vua.
Những bài Quốc ca xoa dịu tâm hồn ta bằng tình yêu quê hương đất nước gắn bó với con người, lòng biết ơn tổ tiên ông bà, rèn giũa bản thân để góp phần nuôi dưỡng tâm hồn con người.
Văn học dân gian cũng tiêu biểu cho nhiều phong cách nghệ thuật, đặt nền móng cho văn học viết.
Nhà văn làm gì trong truyện cổ tích, nhà thơ dạy gì trong ca dao. Đó có phải là văn học về cốt truyện, về bố cục của truyện, về những chi tiết, sự kiện, tình huống gây hứng thú cho người đọc, người nghe. Những phép so sánh, ẩn dụ, nhân hóa… của ca dao là những bài học quý giá cho các nhà thơ và cho những ai “mắc nợ với thơ ca”.