Đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn 9 trường THCS Âm Thượng năm 2014-2015
TRƯỜNG AN NINH A THƯỢNG
KỲ THI HỌC SINH GIỎI LỚP 9
NĂM HỌC 2014 – 2015
VĂN HỌC
Thời gian làm bài: 150 phút (không kể thời gian giao đề)
Câu 1: (4,0 điểm)
Viết về cảnh đất trời vào xuân trong đoạn trích “Ngày xuân” (Truyện Kiều – Nguyễn Du), có ý kiến cho rằng: Từ cặp lục bát thứ nhất đến cặp lục bát thứ hai có sự thay đổi về vòng thơ; Riêng cặp lục bát thứ hai đã thể hiện sự tài tình trong nghệ thuật “vẽ thơ”.
Hãy viết đoạn văn bày tỏ ý kiến về nhận xét trên?
Câu 2: (4,0 điểm)
Khi nhắc về quê hương, Đỗ Trung Quân cho biết:
Quê hương mỗi người chỉ có một
Cũng giống như một người mẹ.
(Quê hương)
Em hiểu quan niệm của nhà thơ như thế nào? Từ đó hãy nêu suy nghĩ của em về quê hương?
Câu 3: (12,0 điểm)
Nhận xét về truyện Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, có ý kiến cho rằng:
“Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong lối sống, nếp nghĩ của những người dân lao động bình thường mà cao cả, những tấm gương của một giai đoạn lịch sử nhiều gian khổ, hy sinh nhưng cũng trong sáng, cao đẹp. Đẹp. Từ hình ảnh những con người ấy gợi lên những suy nghĩ về ý nghĩa cuộc sống, về lao động tự giác, về con người và nghệ thuật.
Qua truyện ngắn “Nhà sàn Sa Pa”, anh (chị) hãy giải thích nhận xét trên.
CÁCH HIỂN THỊ MÃ
Câu 1: (4,0 điểm)
* Bài viết được trình bày dưới hình thức một đoạn văn.
* Nội dung cần đạt như sau:
Đồng ý với nhận xét trên
+ Sự thay đổi của thể thơ
Hai câu đầu gợi dòng chảy bất tận của thời gian, nhịp thơ mượt mà: “Con én ngày xuân… ngoài sáu mươi”. Hình ảnh “huỳnh thoi” vừa gợi không gian vừa ngụ ý mùa xuân qua mau.
Hai câu tiếp theo, khổ thơ dừng lại, mở ra một không gian bao la, không biên giới giữa trời và đất: “Cỏ xanh đến tận chân trời… một vài bông hoa”.
+ Nghệ thuật “hình ảnh thơ” ở cặp thơ thứ hai:
Đất trời một màu xanh mướt của cỏ xuân. Trên nền xanh non ấy điểm xuyết những bông hoa lê trắng. Hai màu xanh, trắng là những gam màu sáng mát tôn lên nhau, màu trắng của hoa lê làm cho cỏ xanh hơn và màu trắng của hoa càng trở nên tinh khôi trên nền cỏ xanh mượt.
Cách dùng từ “đốm trắng” (chứ không phải điểm trắng) giúp ta nhận ra dấu hiệu của mùa xuân trong vẻ đẹp tiềm ẩn nhưng sống động của những sinh vật vô tri vô giác.
Điều này có thể liên quan đến câu ca dao cổ của Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích/Lệ chi sách hoa”.
+ Khả năng rung động tinh tế của nhà thơ trước vẻ đẹp của mùa xuân.
(Không cho điểm tối đa những bài viết trình bày chưa đúng hình thức của đoạn văn.)
Câu 2: (4,0 điểm)
* Yêu câu chung:
Học sinh hiểu đề, viết bám sát chủ đề đã nêu.
Biết cách làm một bài văn nghị luận có bố cục hợp lý, lập luận mạch lạc.
Trình bày ý tưởng rõ ràng và ngắn gọn. Văn viết rõ ràng, có cảm xúc.
*Yêu cầu cụ thể:
+ Quan niệm về quê hương của nhà thơ Đỗ Trung Quân:
– Đoạn thơ nằm trong bài thơ viết về quê cha đất tổ. Trong bài thơ ấy, nhà thơ gợi mở những cách hiểu về quê hương.
– Phép so sánh độc đáo, thú vị: quê hương và mẹ Ý nghĩa của phép so sánh đó nhằm khẳng định quê hương là cội nguồn, là nơi chôn rau cắt rốn, là nơi gắn bó và nuôi dưỡng sự sống, đặc biệt là đời sống tinh thần, tâm hồn.
Thông qua lối so sánh khẳng định để làm nổi bật tình cảm với quê hương đất nước. Quê hương là thứ quý giá mà mỗi con người không thể không có. Hình bóng quê hương theo con người đi suốt cuộc đời và trở thành điểm tựa tinh thần của con người trong cuộc sống. Không có điểm tựa này, cuộc sống của con người trở nên bấp bênh, lệch lạc. Đồng thời, tác giả cũng khơi dậy và nuôi dưỡng tình cảm với quê hương đất nước qua phép so sánh: thương mẹ là tình cảm tự nhiên như một bản năng, tình cảm quê hương là tình cảm tự nhiên, trong sáng trong tâm hồn mỗi con người.
– Gợi lối sống, cách làm người: Phải biết kính trọng cội nguồn, hướng về cội nguồn, biết yêu Tổ quốc. Sự thiếu vắng tình cảm này là một khiếm khuyết trong đời sống tinh thần, là thứ tình cảm ngăn cản con người trở thành con người trọn vẹn.
+ Suy nghĩ của bản thân:
Quê hương là bến đỗ bình yên của mỗi người…
Mỗi người không được quên cội nguồn, cội nguồn, quê hương. Dù đi đâu, ở đâu, lúc nào cũng nhắc về cội nguồn yêu thương.
Trân trọng tình cảm với Tổ quốc là trân trọng tâm hồn, để con người được làm người một cách trọn vẹn nhất.
– Đặt tình yêu Tổ quốc trong mối quan hệ với tình yêu đất nước thì phải hướng về Tổ quốc, nhưng điều này không có nghĩa là chỉ hướng về Tổ quốc nơi mình sinh ra, mà phải biết trân trọng, yêu quý tất cả những gì thuộc về Tổ quốc.
– Có thái độ phê phán những hành vi, suy nghĩ không tích cực về quê hương: chê quê hương nghèo nàn, lạc hậu; làm thay đổi tiêu cực diện mạo quê hương…
– Trách nhiệm xây dựng quê hương.
* Mở bài hay, kết bài hay mỗi phần được 0,5
Câu 3: (12,0 điểm)
* Về kĩ năng: Hiểu đúng yêu cầu của đề. Biết cách làm một bài văn nghị luận có bố cục rõ ràng, kết cấu hợp lí. Diễn đạt tốt, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
* Về nội dung:
Học sinh có thể sắp xếp trình bày theo nhiều cách khác nhau, có thể có ý kiến riêng miễn là phù hợp với yêu cầu của đề. Bất kể thứ tự thực hiện, phải đạt được những điểm chính sau đây.
A/ Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong lối sống, nếp nghĩ của những người dân lao động bình dị mà cao cả, những tấm gương của một giai đoạn lịch sử nhiều gian khổ, hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, tốt đẹp.
Thông qua các nhân vật với những công việc, lứa tuổi khác nhau, tác giả muốn khái quát những phẩm chất cao quý của con người mới trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ cứu nước. Họ có suy nghĩ đúng đắn, thầm lặng cống hiến cho đất nước, tâm hồn trong sáng và giàu lòng nhân ái.
1/ Vẻ đẹp cao quý chung của các nhân vật.
+ Tinh thần trách nhiệm trước công việc: anh thanh niên, đồng chí nhà khoa học.
+ Sống có lí tưởng, sẵn sàng cống hiến: chàng trai trẻ, cô kĩ sư trẻ (một kĩ sư trẻ mới ra trường lần đầu ở Hà Nội, dũng cảm lên Lai Châu công tác. Đi học, đi khắp nơi, làm bất cứ việc gì… ). )
+ Nhận thức sâu sắc ý nghĩa của công việc: anh thanh niên, kỹ sư vườn rau, cán bộ nghiên cứu khoa học…
+ Yêu thích, say mê công việc, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, dám chấp nhận cuộc sống đơn độc để làm việc, làm việc bền bỉ, quên mình bất chấp hoàn cảnh: anh thanh niên, kỹ sư vườn rau, nhà nghiên cứu khoa học.
2/ Vẻ đẹp đời thường.
Điển hình là nhân vật anh thanh niên.
+ Đây là người sống một mình trên núi cao làm việc mà không thấy cô đơn. Anh tổ chức cuộc sống ở trạm khí tượng rất ngăn nắp, chủ động và giản dị (ngôi nhà nhỏ, chiếc giường cá nhân…). Anh sống lạc quan, yêu đời – trồng hoa, nuôi gà, đọc sách.
+ Ông là người khiêm tốn: hoàn thành công việc một cách lặng lẽ, không tự nhận thành tích, luôn ý thức rằng công việc của mình là một phần nhỏ đóng góp cho đất nước; Say mê học hỏi, phấn đấu vì xung quanh anh còn bao nhiêu người, bao tấm gương, bao điều đáng học hỏi (kỹ sư vườn rau, nhà nghiên cứu sét…)
+ Là người sống cởi mở, thân thiện, luôn quan tâm đến mọi người một cách chân thành, chu đáo: đi tìm tâm thất tẩm bổ cho cô vợ lái xe, rước ông họa sĩ già và cô kỹ sư trẻ sang chảnh, ấm áp; hồn nhiên, yêu đời: thèm người, muốn nói…
Khẳng định, khái quát: Tác phẩm thực chất là một bài thơ viết về vẻ đẹp trong lối sống và suy nghĩ của người lao động bình dị mà cao quý. Họ là những thế hệ tiêu biểu cho lớp người mới, cho tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ cứu nước. Tuy không trực tiếp chiến đấu nhưng họ đã góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới và làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến của dân tộc. Họ nối tiếp nhau xứng đáng làm chủ vùng đất này.
(Học sinh có thể trình bày dựa trên việc phân tích từng nhân vật để làm nổi bật ý chung nhưng cần hướng đến nhân vật trung tâm là anh thanh niên.)
B/ Tác phẩm gợi lên những suy nghĩ về ý nghĩa cuộc sống, sự tự ý thức về con người và nghệ thuật”.
Cuộc đời của mỗi người chỉ thực sự có ý nghĩa khi mọi việc họ làm, hành động của họ đều xuất phát từ lòng yêu cuộc sống, yêu con người, yêu và tự hào về đất nước mình đang sinh sống.
Người biết sống có lý tưởng, say mê với công việc và hiểu được ý nghĩa của công việc mình đang làm. Mọi người cần chăm sóc bản thân để sống tốt hơn.
Qua suy nghĩ của người nghệ sĩ: vẻ đẹp của con người và cuộc sống là nguồn cảm hứng vô tận để người nghệ sĩ sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật có giá trị.
B. Tiêu chí chấm điểm:
– Điểm 9 – 12: Bài làm đáp ứng tốt các yêu cầu trên; lập luận chặt chẽ, thuyết phục; Hành văn trong sáng, hấp dẫn, có cảm nhận tinh tế, sáng tạo.
– Điểm 5-8: Bài làm cơ bản đáp ứng các yêu cầu trên; lập luận tương đối chặt chẽ, thuyết phục; diễn đạt rõ ràng, lưu loát; Có thể mắc một số lỗi nhỏ về diễn đạt, chính tả.
– Điểm 0,5 – 4: Nội dung bài viết sơ sài, lập luận thiếu chặt chẽ, thiếu sức thuyết phục; Còn mắc lỗi diễn đạt, chính tả.
– Điểm 0: Sai đề, sai cả nội dung và phương pháp.
Lưu ý chung: Trên đây chỉ là những gợi ý cơ bản về cách tính điểm. Giám khảo linh hoạt khi đánh giá bài làm của học sinh. Khuyến khích viết văn, viết sáng tạo.