Tổng hợp hơn 50 bài văn Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hay nhất có kèm theo dàn ý chi tiết giúp các em có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
Bạn đang xem: thuyết minh về danh lam thắng cảnh
Dàn bài Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh
1. Mở bài
– Giới thiệu người kể chuyện: Danh lam thắng cảnh mà em định giới thiệu.
– Cảm nghĩ chung của em về danh lam thắng cảnh đó.
2. Cơ thể
a) Giới thiệu sơ lược:
- Vị trí địa lý, địa chỉ
- Diện tích
– Phương tiện di chuyển đến đó
– Phong cảnh xung quanh
b) Giới thiệu về lịch sử hình thành:
– Thời gian xây dựng, nguồn gốc hình thành
– Ý nghĩa tên gọi hoặc tên gọi khác (nếu có)
c) Giới thiệu về kiến trúc và cảnh quan
– Cấu trúc khi nhìn từ xa…
- Chi tiết…
d) Ý nghĩa lịch sử, văn hóa của danh lam thắng cảnh đó đối với:
- Địa phương…
- Quốc gia…
3. Kết luận
- Khẳng định lại một lần nữa giá trị, ý nghĩa của đối tượng thuyết minh.
- Nêu cảm nghĩ của bản thân.
Tả một danh lam thắng cảnh – Vịnh Hạ Long – văn mẫu 1
Nhắc đến danh lam thắng cảnh, non nước hữu tình ở Việt Nam khó có thể không nhắc đến Vịnh Hạ Long. Cái tên đó được mọi người Việt Nam biết đến. Nó không chỉ đẹp ở hiện tại hay tương lai mà nó còn đẹp từ quá khứ trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm: “Con gà, con cóc quê hương cũng hóa Hạ Long thành cảnh”. Mới đây, Vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là một trong bảy kỳ quan đẹp nhất thế giới. Vậy không biết Hạ Long có gì mà vinh dự đến vậy?
Vịnh Hạ Long còn có truyền thuyết Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn rồng con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Tàu của kẻ thù từ biển lao vào bờ ngay khi những con rồng đến thế giới. Rồng lập tức phun lửa đốt cháy chiến thuyền giặc, một phần Châu Ngọc dựng bức tường đá sừng sững khiến chiến thuyền giặc vỡ tan, chặn đường tiến của quân ngoại.
Chiến tranh kết thúc, thấy mặt đất yên bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây cần cù, chăm chỉ, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, Rồng mẹ và Rồng con không về trời mà ở lại dương gian, nơi đã trải qua một trận chiến. vừa diễn ra để bảo vệ muôn đời dân tộc Đại Việt. Vị trí Rồng mẹ đáp xuống là Hạ Long; Nơi chú rồng con đáp xuống là Bái Tử Long và đuôi rồng tung bay trong làn nước trắng xóa là Bạch Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay, có bãi cát dài hơn 15 km).
Truyền thuyết khác kể rằng vào thời đất nước có giặc ngoại xâm, một con rồng đã bay theo dòng sông xuống biển và đáp xuống vùng biển Đông Bắc tạo thành một bức tường thành để ngăn chặn bước tiến của đất nước. hải quân địch. Nơi rồng đáp xuống bảo vệ đất nước được gọi là Hạ Long.
Trước hết về vị trí của Vịnh Hạ Long, nó nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam, Vịnh Hạ Long là một phần của Vịnh Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Nam. Giảng viên đại học. Phía Tây Nam của Vịnh giáp đảo Cát Bà, phía Đông là biển, phần còn lại giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km, giới hạn từ 106o58′ - 107o22′ kinh độ Đông và 20o45′ - 20o50′ vĩ độ Bắc với tổng diện tích là 1553 km vuông.
Tiếp đến là đảo ở đây có 1969 đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Đảo ở đây gồm hai loại là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung ở Bái Tử Long và Vịnh Hạ Long. Tại đây chúng tôi được chiêm ngưỡng hàng loạt hang động đẹp và nổi tiếng. Khu di sản thiên nhiên thế giới được công nhận có diện tích 434 km2, gồm 775 hòn đảo, giống hình tam giác với 3 đỉnh là đảo Đầu Gỗ (phía Tây), hồ Ba Hầm (phía Nam), đảo Cống Tây (phía Tây). phía đông) khu vực bên cạnh là vùng đệm và là di tích danh lam thắng cảnh cấp quốc gia được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng năm 1962.
Đến với Hạ Long người ta không thể rời mắt khỏi cảnh sắc nơi đây. Nào là núi, nào là nước với những hang động thực sự cuốn hút người ta muốn đi đến tận cùng để tìm cái hữu hạn trong cái vô tận của núi trời ấy. Chúng tôi tưởng ngọn núi kia như những ngọn núi khổng lồ, ngồi trên thuyền mà ngước lên đo độ cao của những ngọn núi ấy thật là mệt. Đến bây giờ ta mới biết thế nào là hùng vĩ, thế nào là tình cảm giữa nước và non. Nước biển mặn có vị mặn của muối. Hang động với những nhũ đá trông như sắp đổ nhưng thực ra không hề đổ. Nó giống như hàng ngàn giọt ngọc lỏng lấp lánh dính vào nhau nhưng không rơi.
Những người ở đây cũng thực sự đáng yêu. Họ không chỉ hiếu khách mà còn giống như một hướng dẫn viên du lịch vừa giới thiệu quang cảnh vừa vững vàng đẩy bánh xe đến nơi khách muốn đến. Người dân nơi đây nồng hậu khi khách đến và khi khách ra về, để lại những ấn tượng khó quên về tình người dân quê đậm đà tình cảm mặn như muối biển.
Qua đây ta thấy Vịnh Hạ Long thật xứng đáng là một trong bảy kỳ quan thế giới. Nếu ai đã từng đến đây chắc hẳn sẽ rất ấn tượng với cảnh đẹp và con người nơi đây. Ai chưa đến thì nhanh chân đến và tận hưởng những gì thiên nhiên, mẹ thiên nhiên ban tặng nhé.
Tả một danh lam thắng cảnh – Vịnh Hạ Long – văn mẫu 2
Nước ta có rất nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Trong số đó không thể không kể đến Hạ Long. Đó là một kiệt tác của thiên nhiên, được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Người Việt Nam tự hào sở hữu một cảnh quan đẹp như vậy.
Vịnh Hạ Long là một vịnh nhỏ ở bờ Tây vịnh Bắc Bộ thuộc vùng biển Đông Bắc Việt Nam, thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh. Vịnh Hạ Long được hình thành bởi sự vận động của đá và nước, là một tác phẩm nghệ thuật địa lý được hoàn thiện sau hàng triệu năm biến đổi địa chất. Vịnh Hạ Long được giới hạn trong một diện tích khoảng 1.553km² bao gồm 1.960 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó phần lớn là đảo đá vôi.
Nói đến Vịnh Hạ Long trước hết phải nói đến vẻ đẹp thần tiên của núi non, mây trời nơi đây. Từ trên cao nhìn xuống, Vịnh Hạ Long như một bức tranh thủy mặc khổng lồ và sống động. Đó là những tác phẩm tạo hình tuyệt đẹp và tài hoa của tạo hóa và của thiên nhiên, biến hàng ngàn đảo đá vô tri vô giác yên ắng ấy thành những tác phẩm điêu khắc, hội họa hoàn mỹ với muôn hình vạn trạng yêu kiều. Hàng nghìn đảo đá nhấp nhô trên sóng biển lung linh, vừa mạnh mẽ, hùng vĩ nhưng cũng rất mềm mại, duyên dáng và sống động. Đi giữa Hạ Long với muôn ngàn đảo đá, chúng tôi ngỡ như mình đang lạc vào một thế giới cổ tích hóa đá nơi đây. Hòn đảo trông giống ai đó đang tiến vào đất liền – Đảo Đầu Người; hòn đảo tựa con rồng lượn trên mặt nước – Hòn Rồng; hòn đảo giống như một ông già ngồi câu cá - đảo Lã Vọng; và có hai cánh buồm nâu lực lưỡng rẽ sóng ra khơi – đảo Cánh Buồm; rồi hai chú gà đang âu yếm nhau trên sóng - hòn Trống Mái; sừng sững giữa biển nước bao la một lư hương khổng lồ như một lễ vật dâng lên đất trời – Lư Hương đảo… Tất cả đều rất thực, thực đến lạ lùng. Những hòn đảo đá kỳ diệu đó thay đổi khôn lường theo thời gian và góc nhìn. Đến bây giờ chúng tôi mới nhận ra rằng tất cả chúng không phải là những hòn đảo vô tri nằm im lìm mà dường như có linh hồn và đang sống.
Ẩn mình trong lòng những đảo đá này là những hang động tuyệt đẹp như động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, hang Sửng Sốt, hang Trinh Nữ, động Tam Cung… Đó thực sự là những lâu đài của tạo hóa giữa chốn bồng lai tiên cảnh. Từ xa xưa, Hạ Long đã được đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi mệnh danh là “kỳ quan của đất dựng giữa trời”. Du khách từ khắp nơi trên thế giới khi đến đây đều cảm thấy vô cùng thích thú trước vẻ đẹp kỳ vĩ của Hạ Long. Biển ở đây cũng mang một vẻ đẹp rất riêng khi hoàng hôn buông xuống. Mặt vịnh lúc này nhuộm một màu đỏ rực của những tia nắng cuối cùng. Cảnh vật hòa quyện vào nhau tạo nên những sắc màu diệu kỳ. Khi màn đêm buông xuống, vào những đêm trăng sáng, mặt nước như được dát bạc hòa cùng màu sẫm của những đảo đá xa xa khiến Vịnh Hạ Long trở nên huyền ảo như trong mơ.
Hùng vĩ và bí ẩn, truyền cảm và độc đáo, Vịnh Hạ Long thực sự là một trong những kỳ quan thiên nhiên đẹp nhất. Những hòn đảo nhỏ như được điểm xuyết trên nền xanh ngọc bích của biển, cùng những hang động kỳ bí do sóng và gió tạo nên, những cánh rừng xanh rờn tiếng chim hót, thật huyền ảo. Sương mù có thể khiến tầm nhìn bị hạn chế nhưng lại góp phần làm cho Vịnh Hạ Long thêm lung linh, huyền ảo. Ta đang ngỡ ngàng trước khung cảnh nên thơ này thì bỗng một khung cảnh khác hiện ra, mới lạ đầy quyến rũ. Các ngóc ngách lúc đóng, lúc mở, lúc là hành lang thẳng tắp soi bóng nước trời, lúc uốn lượn dưới chân những ngọn núi cao vút, đổ bóng huyền bí trên mặt nước phẳng lặng. Có khi thuyền chúng tôi đang dong buồm, bỗng thấy trước mặt là một dãy đảo, chắn ngang con lạch, tưởng như cùng đường. Nhưng không, khi thuyền chúng tôi lướt đi, dãy đảo như né đi, mở ra những ngã rẽ bất ngờ dẫn chúng tôi đi sâu vào rừng đảo vừa quen vừa lạ. Khung cảnh biển đảo Hạ Long thoắt ẩn, thoắt hiện, đổi thay tưởng như trong chốc lát đã làm bao du khách ngỡ ngàng, say đắm.
Hạ Long còn là nơi gắn liền với lịch sử vẻ vang, hào hùng của dân tộc Việt Nam với những địa danh nổi tiếng như Vân Đồn - nơi có thương cảng cổ sầm uất vào thế kỷ XII; có núi Bài Thơ lịch sử; cách đó không xa là dòng sông Bạch Đằng - chứng tích của hai trận thủy chiến lẫy lừng của các thế hệ ông cha chống giặc ngoại xâm. Không chỉ vậy, Hạ Long còn là một trong những cái nôi cư trú của con người với nền Văn hóa Hạ Long rực rỡ vào thời kỳ Hậu kỳ đồ đá mới tại các di chỉ khảo cổ học nổi tiếng như Đồng Mang, Xích Thổ, Soi Nhụ,… Thới Giếng… Hạ Long là còn là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với các hệ sinh thái tiêu biểu như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái san hô, hệ sinh thái mai, hệ sinh thái rừng nhiệt đới… Với hàng nghìn loài động thực vật vô cùng phong phú và đa dạng như tôm, cá, mực… .Có những loài đặc biệt quý hiếm chỉ có ở đây.
Với những giá trị đặc biệt về cảnh quan, địa chất, địa mạo Vịnh Hạ Long hội tụ những điều kiện thuận lợi để phát triển ngành kinh tế du lịch đa dạng. Đến với Vịnh Hạ Long, chúng ta có thể tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, tham quan, tắm biển, chèo thuyền, nhảy dù, lặn khám phá rạn san hô, câu cá giải trí... Vịnh Hạ Long phù hợp cho du khách. nuôi trồng, đánh bắt thủy sản do có điều kiện thuận lợi: khí hậu tốt, vùng bãi triều rộng, nước trong, ngư trường gần bờ và xa bờ có trữ lượng hải sản cao, đa dạng với cá mú, chả cá, hàu, tôm, bào ngư, trai ngọc các loại.
Hiện nay, Vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Hạ Long là một địa điểm du lịch hấp dẫn bởi phong cảnh quá đẹp và hữu tình. Phong cảnh Hạ Long không bao giờ nhàm chán, mỗi mùa mang đến cho Hạ Long một sắc thái ấn tượng riêng. Vào mùa xuân giữa mênh mông sóng nước trong làn sương bạc bao phủ, những đảo đá trở nên uyển chuyển, mềm mại bồng bềnh trên sóng nước. Hè về, bình minh ló rạng phía chân trời, những đảo đá như nhô lên khỏi mặt nước bao la. Cả vịnh mang một màu đỏ rực chuyển dần sang màu xanh lam. Những gợn sóng ánh bạc đua nhau nổi trên mặt vịnh, xô vào bờ. Vịnh Hạ Long là di sản văn hóa đáng tự hào của dân tộc.
Ngày nay, Vịnh Hạ Long vẫn đang thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan, mang lại nhiều lợi ích cho đất nước, chúng ta cần nỗ lực hết sức để bảo vệ và giữ gìn Vịnh Hạ Long để vịnh ngày càng xanh hơn. tươi tắn hơn, mãi mãi là niềm tự hào của đất nước.
Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Hồ Gươm
Đất nước ta được thiên nhiên ban tặng rất nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, ở mỗi vùng, mỗi tỉnh đều có những danh lam thắng cảnh nổi tiếng và có những nét đặc trưng riêng, một trong những danh lam thắng cảnh đẹp của nước ta là Hồ Gươm, bất kỳ ai khi đến du lịch tại thành phố Hà Nội đều không thể bỏ qua Hồ Gươm , Hồ Gươm không chỉ đẹp bởi cảnh sắc, mực nước hồ trong xanh, hàng liễu rủ rợp bóng mà Hồ Gươm còn gắn liền với lịch sử chiến đấu. Bức tranh hào hùng bất khuất của dân tộc ta là một danh lam thắng cảnh đáng tự hào của người Hà Nội.
Điểm đặc biệt của Hồ Gươm không chỉ là một danh lam thắng cảnh đẹp mà còn là một di tích lịch sử của nước ta, tương truyền rằng thời giặc Minh đô hộ nước ta rất tàn ác, gây nhiều tội ác với nhân loại. Nhân dân ta, làm cho nhân dân sống lầm than, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, nghĩa quân lúc đầu mỏng yếu nên thường bị thất thế, Đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm. với gươm thần đánh giặc, và từ khi có gươm thần, Lê Lợi cùng với nghĩa quân Lam Sơn đã đánh giặc, giúp nước ta thoát khỏi ách đô hộ của giặc Minh, một năm sau Lê Lợi trở về Chàng trả lại gươm thần cho Thần Kim Quy, từ đó hồ Tả Vọng đổi tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.
Trên hồ có hai hòn đảo là đảo Ngọc và đảo Rùa. Đầu thế kỷ 19, người dân đã xây dựng một ngôi chùa trên đảo Ngọc và gọi là chùa Ngọc Sơn. Sau đó không lâu, chùa Ngọc Sơn thôi thờ Phật mà dời đi. Thờ Văn Xương và Trần Văn Đạo, đổi tên là đền Ngọc Sơn. Năm 1864, Tháp Bút được xây dựng trên gò Ngọc Bội đối diện với đảo Ngọc.
Chúng ta sẽ được thưởng ngoạn khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, ở Hồ Gươm có cầu Thê Húc và đền Ngọc Sơn, cầu có một đoạn ngắn uốn cong trông rất đẹp và là con đường duy nhất để du khách đi vào. Đền Ngọc Sơn.
Xung quanh hồ Hoàn Kiếm, khung cảnh xung quanh cũng rất đẹp, những rặng liễu xanh rủ xuống mặt hồ, xung quanh hồ có những chiếc ghế đá cho du khách ngồi nghỉ chân, chim hót líu lo, mặt hồ trong xanh, cảnh đẹp. Không chỉ đắm mình trong hơi thở lịch sử mà thiên nhiên xung quanh hồ cũng vô cùng tươi đẹp.
Đến với hồ Hoàn Kiếm, ta còn bắt gặp những cụ già và trẻ em ngồi nghỉ chân trên những chiếc ghế đá, những đôi trai gái tay trong tay đi dạo trên phố, những cô gái chơi nhạc tập thể dục… tất cả họ đều thưởng thức vẻ đẹp của Hồ Gươm theo cách riêng của mình. Những hoạt động này làm cho hồ Hoàn Kiếm thêm sinh động.
Hồ Gươm không chỉ mang vẻ đẹp cổ kính mà còn mang vẻ đẹp hiện đại, là một thắng cảnh đẹp của nước ta, trải qua nhiều giai đoạn phát triển của đất nước Hồ Gươm vẫn đẹp và trở thành điểm du lịch hấp dẫn. hướng dẫn cho khách du lịch trong và ngoài nước.
Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Hồ Hoàn Kiếm
Đẹp như một lãng hoa giữa lòng thành phố, hồ Hoàn Kiếm được bao bọc bởi các con phố Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ, Hàng Khay dài khoảng 1800m. Mặt nước là tấm gương lớn phản chiếu những hàng cây cổ thụ, những hàng liễu rũ tóc, những mái đình, chùa cổ kính, những ngọn tháp rêu phong, những tòa nhà cao tầng mới vươn lên trời xanh.
Nước hồ trong xanh quanh năm nên ngày xưa hồ có tên gọi là hồ Lục Thủy. Truyền thuyết kể rằng: Khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn đã tìm được thanh gươm báu. Thanh gươm đã theo ông suốt 10 năm chống giặc Minh (thế kỷ 15). Sau khi chiếm lại được kinh thành Thăng Long, vua Lê đi thuyền trên hồ gặp rùa vàng nổi trên mặt nước. Vua rút gươm ra cho quân lính xem thì rùa nhảy lên chộp lấy gươm rồi biến mất. Vua cho là điềm lành, đất nước có chiến tranh, rùa thần cho mượn gươm, nay yên ổn nên thu hồi. Vì vậy, hồ được đặt tên là Hồ Hoàn Kiếm (trả gươm), gọi tắt là Hồ Gươm.
Rùa là một trong tứ linh (long, lân, quy, phụng) trong tâm thức dân gian. Loài rùa quý này vẫn sống dưới lòng hồ, hàng năm có những lần trồi lên mặt nước, du khách nào thấy rùa nổi trên mặt hồ thì vui mừng biết bao.
Có hai hòn đảo nổi trong hồ. Đảo lớn là đảo Ngọc ở phía bắc hồ, sát bờ đông có cây cầu Thê Húc cong cong màu đỏ nối sang đảo. Đảo Rùa thì nhỏ hơn, có một ngọn tháp cổ ở mé nam hồ, giữa bốn bề sóng nước long lanh.
Hồ Hoàn Kiếm là điểm hẹn của du khách bốn mùa. Mùa xuân tràn ngập các lễ hội truyền thống và hoa đào rực rỡ. Hè về mang theo từng cơn gió heo may, quạt mát cái oi ả của thành phố bằng tiếng ve kêu râm ran. Mùa thu với làn sương huyền ảo, dáng liễu mơ hồ chân thực đã làm xiêu lòng biết bao nhiếp ảnh gia tài ba. Mùa đông đi trong cơn mưa lá vàng, bước nhẹ trên thảm lá rơi rì rào với cái lạnh Đông Nam Á và những hạt mưa lất phất.
Mỗi mùa, Hồ Gươm mãi mãi là dấu son hào hùng của thời dựng nước và khát vọng hòa bình của cha ông ta.
Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Hồ Gươm
Nói đến thủ đô Hà Nội thân yêu của chúng ta không thể không nhắc đến Chùa Một Cột - hình bông sen vươn lên từ bùn nhơ hàng nghìn năm Bắc thuộc - tiêu biểu cho ý thức tự cường dân tộc. Hay Khuê Văn Các - viên ngọc kết tinh của nền khoa học ngàn đời. Nhưng chúng ta vẫn nghe nói về Hồ Gươm nhiều nhất. Nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, thành phố vì hòa bình, nơi đây có Tháp Rùa tượng trưng cho khát vọng hòa bình. Đài Nghiên, Tháp Bút chỉ nền văn hiến cổ xưa. Chỉ với ba biểu tượng ấy, hồ Hoàn Kiếm đã xứng đáng là trái tim của thủ đô!
Hồ Hoàn Kiếm không chỉ là một danh lam thắng cảnh tô điểm thêm vẻ đẹp và sự duyên dáng cho thủ đô mà còn là một trong những dấu ấn tiêu biểu của lịch sử ngàn năm của đất kinh kỳ Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Để đến thăm Hồ Gươm chúng ta có thể đi từ nhiều con đường khác nhau như Hàng Bài, Tràng Thi, Hàng Khay hay các khu phố cổ, Hồ Hoàn Kiếm nằm ở trung tâm quận Hoàn Kiếm, là điểm nối giữa các thành phố. "Khu phố cổ với khu phố Tây được người Pháp quy hoạch lại cách đây hơn một thế kỷ. Ai cũng biết, hồ Hoàn Kiếm là một phần còn lại của sông Hồng. Hàng trăm năm trước, hồ Gươm nối liền với sông Hồng, một nhánh tiếp nước của sông Hồng, chảy qua các phố "Hàng Đào, Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Hàng Chuối,.. Từ Thê" Vào thế kỷ 19, khi nước ta bị thực dân Pháp đô hộ, do Khi nước sông Hồng dâng cao, Hồ Gươm chỉ là một con sông nhỏ chảy qua Hàm Cá Mập (xưa là bến xe điện) nên để qua sông, người Pháp đã cho xây một chiếc cầu gỗ rồi san lấp dần mặt bằng. Và ngày nay, nơi đó chính là “Cầu Goo” mà ai cũng biết.
Từ xưa đến nay, Hồ Gươm đã trải qua lịch sử với nhiều tên gọi khác nhau. Cách đây khoảng sáu thế kỷ, Hồ Gươm gồm hai phần chạy từ phố Hàng Đào, qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt rồi đến phố Hàng Chuối. Nước hồ trong xanh quanh năm nên ngày xưa hồ Gươm còn có tên gọi là hồ Lục Thủy. Rồi tên Tả Vọng để phân biệt với Hữu Vọng. Sau khi các triều đại chọn Thăng Long làm kinh đô, hồ còn được dùng làm nơi huấn luyện thủy binh. Tương truyền vào thế kỷ 15, hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, gắn liền với truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng, ghi chiến công đánh đuổi quân Minh xâm lược dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi. 1427). Tương truyền, khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hóa), một người đánh cá tên là Lê Thận (sau gia nhập nghĩa quân Lam Sơn) đã rút gươm, Lê Lợi nhặt lại chuôi. Trên một thân cây, khi chuôi và lưỡi hợp lại thành một thanh kiếm, ông đặt tên cho nó là "Thuận Thiên" có nghĩa là "thuận theo ý trời". Thanh gươm báu đã theo Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Khi lên ngôi, định đô ở Thăng Long, trong một lần vua dạo chơi thuyền ở hồ Lục Thủy, bỗng có một con rùa hiện lên, trồi lên khỏi mặt nước. Lê Thái Tổ rút gươm ra khỏi vỏ, giơ gươm lên và gươm bay về phía rùa. Rùa cầm gươm lặn xuống đáy hồ. Chắc hẳn ai cũng biết vào tháng 5 âm lịch năm 2010, khi Hà Nội kỷ niệm 583 năm ngày vua Lê chiến thắng giặc Minh, chúng ta được chứng kiến hình ảnh cụ Rùa ngoi lên mặt nước… Ai cũng ngạc nhiên và càng ngạc nhiên hơn. . càng tin vào sự linh thiêng của Hồ Gươm – viên ngọc xanh giữa lòng Thủ đô này…
Hồ Gươm rất đặc biệt. Nó có một màu sắc riêng, khác với những hồ khác. Hồ Gươm ngày xưa trong lắm, đẹp lắm, một màu nước trong xanh… Bạn có biết màu xanh ấy từ đâu ra không? Trong lớp bùn hồ Gươm có sự ra đời của một loài tảo. Nhờ sự quang hợp của loài tảo ấy mà Hồ Gươm trong xanh biết bao! Một lần, các nhà khoa học đã cố gắng mang tảo đi trồng ở nơi khác, nhưng chúng không sống! Phải chăng hồ Hoàn Kiếm còn điều đặc biệt khác?… Nhưng giờ đây, màu trong xanh ấy đã bị ô nhiễm mà nguyên nhân chính là do con người. Chính người dân chưa có ý thức, vứt rác bừa bãi xuống hồ và Nhà nước chưa có biện pháp vệ sinh hồ thường xuyên nên khiến nước hồ ngày càng đục, bờ hồ ngổn ngang những túi rác mà người dân đã ném. Điều đó sẽ dẫn đến hậu quả gì? Trước hết, Hồ Gươm không còn đẹp như xưa mà đã mất đi vẻ đẹp tự nhiên. Và hậu quả thứ hai là Rùa bị tổn thương vì môi trường quá bẩn. Trước đây, ông Rùa chỉ nổi lên vào những dịp lễ tết, nhưng thời gian gần đây, ông Rùa nổi lên rất thường xuyên và người ta đã nhìn thấy những vết thương trên cơ thể ông Rùa. Chẳng lẽ những người vứt rác xuống hồ không hiểu được những điều này sao? Và vài năm trở lại đây, việc làm sạch Hồ Gươm bắt đầu được chú trọng. Chúng ta đều nhận thấy rằng, mặc dù Nhà nước và Chính phủ đã có những biện pháp giải quyết vấn đề này, nhưng trên thực tế nước hồ ngày càng bẩn. Vì vậy, điều quan trọng vẫn là ý thức của người dân, chúng ta phải giữ gìn vệ sinh hồ để không làm mất đi vẻ đẹp của Hồ Gươm nói riêng và vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội, hình ảnh tốt đẹp của con người. Việt Nam nói chung.
Tại hồ Hoàn Kiếm, chúng ta dễ dàng bắt gặp Đài Nghiên và Tháp Bút do danh nhân Nguyễn Văn Siêu xây dựng vào năm 1864. Trên thân tháp có khắc ba chữ “Tả Thanh Thiên” nghĩa là “Viết lên trời xanh”, ngày nay vẫn thường gọi là Tháp Bút. Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là Đài nghiên, trên đặt một xiên nghiên mực bằng đá hình nửa trái đào chẻ dọc, có ba chân tựa hình ba con ếch. Sở dĩ có ba chú ếch đồng đội là vì nhà thơ Nguyễn Văn Siêu muốn nhắc nhở chúng ta không nên kiêu căng dẫn đến những hậu quả khó lường như trong truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng và Nguyễn Văn Siêu cũng muốn viết lên trời xanh khát vọng. hòa bình, truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam. Có một điểm đặc biệt giữa Tháp Bút và Đài Nghiên. Đó là vào những buổi trưa hè, từ ngoài cổng nhìn vào, có hai bức tường sừng sững hai bên, cả hai bức tường cao quý ấy đều khắc tên những người đỗ đạt, khiến những học sinh đi qua đều cố gắng học tập. Đi vào trong sẽ thấy cầu Thê Húc. Cầu Thê Húc được làm bằng gỗ rất thô sơ và sơn màu đỏ. Cầu được thiết kế cong cong như hình con tôm. Cầu Thê Húc hướng về phía Đông, về phía mặt trời mọc để đón trọn nguồn dưỡng khí và những tia nắng đầu tiên. Với ý nghĩa đó, cây cầu màu đỏ - màu của sự sống, màu của hạnh phúc, của sự thanh cao, của ước nguyện được truyền lại từ xa xưa cho đến ngày nay - cầu Thê Húc - chính là biểu tượng của Thần mặt trời! Tên của cây cầu có nghĩa là "ánh nắng sớm mai đậu". Đi sâu vào bên trong, chúng ta sẽ đến với đền Ngọc Sơn linh thiêng. Ngôi chùa được xây dựng trên đảo Ngọc. Toàn bộ khu đền được lợp bằng ngói đỏ trông tươi mới với những hình cong được chạm khắc tinh xảo. Đền thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Văn Xương Đế Xuân - vị thánh đứng đầu văn học khoa bảng. Ngoài hiên có chiếc tủ kính bên trong đặt cụ Rùa khi các nhà khoa học nhặt được vào những năm sáu mươi của thế kỷ XX. Cụ Rùa có tuổi thọ khoảng 500-600 năm. Không chỉ có một cụ Rùa mà dưới Hồ Gươm còn có vài cụ Rùa khác.
Hồ Gươm được du khách coi là thắng cảnh. Xung quanh hồ là những loại cây có dáng vẻ tráng lệ như: phượng vĩ, hoa súng, liễu rủ. Ven hồ cũng trồng rất nhiều hoa và kết thành hình chữ thư. Ngày nay, chúng ta đều thấy rất nhiều du khách nước ngoài cũng như trong nước và người dân Hà Nội đi dạo quanh hồ. Họ chụp ảnh, họ nói chuyện và họ cũng cảm thấy thoải mái… Chắc chắn rồi!… Bên cạnh hồ Hoàn Kiếm, không chỉ có khách du lịch dạo quanh, chúng tôi còn thấy những người già ngồi chơi cờ, cũng như các cô chú. Cô tập thể dục để giữ cơ thể săn chắc và khỏe mạnh. Những đứa trẻ cũng thường ra bờ hồ chơi đùa, tận hưởng không khí mát mẻ. Từ Hồ Gươm, chúng ta còn có thể nhìn thấy những địa điểm nổi tiếng của Hà Nội như tượng đài Lý Thái Tế, Bưu điện Hà Nội với những chiếc đồng hồ cổ đặt trên mái nhà hay những khu phố cổ,… Mới thấy Hồ Gươm đẹp biết bao, muôn màu muôn vẻ…
Cùng nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
Ngắm cầu Thê Húc, ngắm chùa Ngọc Sơn,
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai dựng nước này?
Hồ Gươm có thể có từ nhiều thế kỷ trước, có thể có nhiều tên gọi, nhưng với tôi, hồ Hoàn Kiếm chỉ mới hơn mười ba tuổi. Dù thế nào đi nữa, Hồ Gươm sẽ mãi mãi là một phần trong trái tim tôi.
Mô tả về một danh lam thắng cảnh – Chợ Bến Thành
Ai đến Sài Gòn, hẳn đã đôi lần được đặt chân lên tham quan và mua sắm tại chợ Bến Thành. Nằm ngay trung tâm thành phố, chợ Bến Thành rất quen thuộc với người dân Việt Nam và du khách quốc tế khi đến TP.HCM.
Sở dĩ có tên chợ Bến Thành vì chợ nằm gần bến sông và thành Quy. Đầu thế kỷ 17, khi người Việt đến định cư ở đồng bằng sông Cửu Long, Sài Gòn xưa trở thành một khu chợ sầm uất. sầm uất nhất khu vực phía nam châu lục. Vào giữa thế kỷ 19, một ngôi chợ nhỏ xuất hiện ở vùng đất sình lầy cạnh sông Bến Nghé, sát thành Sài Gòn. Chợ Bến Thành được sử cũ miêu tả như sau: Là một “phố chợ nhà cửa đông đúc bên bến sông. Đầu bến này, theo lệ đầu xuân ngày tế, hội đầu tuần, có thủy quân”. tập, nơi bến đò có con đò chở thương nhân từ biển lên, đầu phía bắc phố là sông Sa Ngưu, có cầu ván bắc qua, hai bên cầu có dãy phố ngói, gom hàng trăm mối, dọc bến sông thuyền buôn lớn nhỏ cập bến.
Đất Gia Định lúc bấy giờ là một vùng đất nông nghiệp trù phú nên chợ Bến Thành có đầy đủ các loại hàng hóa như gạo, cá khô, tôm khô, cau, đường… được bày bán để mua lụa, trái cây, hương, trà. , người hâm mộ. , đồ sành sứ, thuốc men, thảo dược... mang từ nước ngoài về. Đây là khu vực nay được dành làm thương cảng Sài Gòn. Sau cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi (1833-1835), phố chợ Bến Thành không còn sầm uất như xưa. Chợ được xây bằng gạch, sườn gỗ, mái tranh.
Sau khi chiếm Gia Định, thực dân Pháp dựng nhà lồng làm chợ ngay trên khu đất nay là Trường Ngân hàng 3. Chợ này bị thiêu rụi năm 1870, nhưng được trùng tu bằng sườn sắt. Trước nhà chợ có con kênh rộng chạy dài đến trước cửa tòa nhà nay là trụ sở UBND TP. Đến năm 1887 - 1888, con kênh này bị lấp khiến khu vực Võ Di Nguy, Tôn Thất Thiệp trở nên nhộn nhịp hơn. Đại lộ Nguyễn Huệ trước đây là đường lấp. Chợ Bến Thành được dời về vị trí hiện nay.
Xem thêm: vẽ sơ đồ phòng cháy chữa cháy
Nhà chợ được khởi công xây dựng trên khu đất trước đây là ao bùn có tên là ao Boresse. Ngôi chợ này được xây dựng vào khoảng năm 1912 và khánh thành vào tháng 3 năm 1914. Ngày khánh thành có khoảng 100.000 người tham dự, trong đó có cả nhân dân các tỉnh. Buổi lễ diễn ra trong ba ngày 28, 29 và 30 tháng 3 năm 1914 với pháo hoa và xe hoa.
Vì vậy chợ Bến Thành cũ trở thành Chợ Cũ, và chợ Bến Thành mới được gọi là Chợ Mới Sài Gòn. Cho đến năm 1940, hai con phố bên cạnh chợ vẫn là bến xe miền Đông và bến xe miền Tây. Gần trăm năm qua, chợ Bến Thành luôn là trung tâm thương mại, trung tâm sầm uất của Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ xưa. Dần dần nó trở thành một cái chợ lớn, nơi tập trung những mặt hàng quý hiếm của trong và ngoài nước.
Chợ Bến Thành ngày nay có khoảng 3.000 hộ kinh doanh. Hình ảnh chợ Bến Thành thường được lấy làm biểu tượng cho thành phố.
Chợ Bến Thành ngày nay được đầu tư nâng cấp khang trang đẹp đẽ hơn trước rất nhiều để xứng đáng là trung tâm buôn bán lớn của phía Nam đất nước. Hàng hóa của chợ Bến Thành rất phong phú, bao gồm hầu hết các sản phẩm trong nước - nhất là của vùng đồng bằng sông Cửu Long - và các sản phẩm công nghiệp hiện đại trên thế giới.
Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh – Sapa
Chưa đi chưa biết Sapa
Đi rồi thấy ba bốn tầng mây
Nắng quanh Thác Bạc
Xối trắng tình bay đi
Sapa là thành phố sương mù, với nhiều cảnh đẹp làm say đắm lòng người. Chúng ta biết đến một Fansipan hùng vĩ, nóc nhà Đông Dương, những sườn đồi vàng óng khi lúa vào mùa gặt và không thể không nhắc đến khu du lịch Hàm Rồng nổi tiếng vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. lãng mạn.
Núi Hàm Rồng nằm ở trung tâm thị trấn Sa Pa, điểm thấp nhất của núi lên tới 1450m và cao nhất là 1850m so với mực nước biển. Núi Hàm Rồng rất hùng vĩ, xen lẫn các kiểu núi khác nhau, với màu xanh ngút ngàn của cây cối bao trùm bốn phương. Do là địa hình núi cao nên mỗi khi mùa đông đến, nhiệt độ hạ thấp sẽ xuất hiện băng giá, thậm chí có tuyết rơi, gây sự thích thú, tò mò cho người dân cả nước.
Khu du lịch Hàm Rồng là một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất của Sapa. Được khởi công xây dựng từ năm 1996, với diện tích 148ha. Khu du lịch này khai thác yếu tố thiên nhiên hoang sơ để tạo nên sức hút riêng. Đi từ chân núi lên đỉnh núi là những khung cảnh thiên nhiên khác nhau, vừa hùng vĩ nhưng cũng vô cùng thơ mộng. Là những vườn lan rộng lớn với hơn 6000 cây lan thuộc 194 loại lan khác nhau. Hoa thơm bốn mùa nở rộ, ong bướm bay lượn ngày đêm. Bên cạnh vườn lan còn có vườn hoa rất đa dạng với màu sắc rực rỡ: hoa bươm bướm, thược dược, cẩm tú cầu, hoa bất tử,… cùng hàng chục giống hoa lạ, độc đáo được đưa từ Nga, Pháp, Nhật về trồng thử nghiệm. Đường lên Hàm Rồng quanh co, khúc khuỷu, trước đây chưa được trải nhựa là thử thách đối với du khách nhưng vài năm gần đây đã được trải đá tạo điều kiện thuận lợi cho người dân chinh phục. đỉnh núi này. Trước khi lên đến đỉnh, chúng ta sẽ phải đi qua một con đường hẹp, dẫn đến động Tam Môn. Con đường này chỉ vừa một người đi qua, khi đi qua là cả một khoảng trời bao la mở ra trước mắt, với vườn cây ăn trái vô cùng đa dạng: đào, lê, mận,…
Lên đến sân mây, tức đỉnh Hàm Rồng, một khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời mở ra trước mắt. Ở độ cao 1800m so với mực nước biển, chúng tôi cảm nhận được cái lạnh thấu xương khi ngay bên dưới, nắng vàng vẫn chói chang, cảm nhận được những đám mây trắng bồng bềnh trong vườn luồn qua mái tóc. Một khung cảnh rất lãng mạn.
Hàm Rồng là một trong những tiềm năng du lịch lớn của thành phố Lào Cai. Đến Sapa mà chưa đến núi Hàm Rồng là chưa đến Sapa. Khu du lịch này góp phần quan trọng vào quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế của vùng đất Lào Cai trù phú, giàu tài nguyên.
Sapa thơ mộng và hùng vĩ càng trở nên đẹp hơn khi có khu du lịch Hàm Rồng. Khu du lịch này không chỉ mang lại nguồn lợi lớn về kinh tế mà còn mang đến cho người dân một không gian nghỉ dưỡng thoải mái, sảng khoái, bỏ lại sau lưng những ồn ào, khói bụi của đô thị. Để cho phép mọi người hoàn toàn đắm mình trong môi trường tự nhiên.
Không chỉ vậy, Sa Pa nói chung và Hàm Rồng nói riêng còn truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ nghệ sĩ:
Chiều Sapa – Huyền Thanh
Hàm Rồng là cổng đá
Khói vườn xanh soi bóng trăng mờ
Vua hút thuốc của ánh sáng buổi tối
Xóm nghèo mẹ già neo đơn..
Cùng vô số bài thơ hay và đặc sắc khác.
Một lần đến với Sa Pa, chúng ta sẽ nhớ mãi hình ảnh những em bé Mông xinh xắn, nụ cười giòn tan trong nắng vàng. Nhớ về một Hàm Rồng hùng vĩ nhưng bên cạnh đó là nét hoang sơ, mong manh, mộng mơ. Sapa là thế, cái lạnh thấu xương không thể làm phai mờ vẻ đẹp của thiên nhiên, hơi ấm của tình người.
.
Tả danh lam thắng cảnh – Văn Miếu – Quốc Tử Giám – mẫu 1
Năm nào cũng vậy, cứ đến mùa thi, nhiều học sinh miền Bắc luôn tìm đến Văn Miếu để cầu may, bên cạnh đó cũng có rất nhiều cử nhân chọn nơi đây để lưu lại những bức ảnh kỷ yếu. thời học sinh tươi đẹp. Tại sao nơi này thường gắn liền với các hoạt động học tập? Đó là bởi vì đây là một nơi giàu truyền thống văn hóa và học thuật.
Văn Miếu Quốc Tử Giám được biết đến là một địa danh nằm ở thủ đô Hà Nội, được coi như biểu tượng trường tồn của tinh hoa văn hóa, giáo dục dân tộc, của truyền thống tôn sư trọng đạo.
Văn Miếu, theo Đại Việt sử ký toàn thư, được xây dựng vào năm 1070, dưới triều vua Lý Thánh Tông, để thờ các bậc thánh hiền và các bậc thầy của Nho giáo. Đồng thời, đây cũng là ngôi trường hoàng gia. Năm 1253, Trần Thái Tông mở rộng Quốc Tử Giám, thu hút những học sinh là con nhà thường dân học lực xuất sắc.
Văn Miếu tọa lạc trên khu đất hình chữ nhật có tổng diện tích 54000 m2, được bao bọc bởi bức tường gạch lớn tạo nên không gian cổ kính, trang nghiêm. Bước vào bên trong, những mái kiến trúc cổ kính ẩn hiện trong những cành cây xum xuê tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt đối với du khách. Trong Văn Miếu có hồ Văn, đây là nơi diễn ra các cuộc bình thơ. Nội tâm được chia thành 5 khu vực. Khu một từ Văn Miếu đến Đại Trung Môn. Để vào Văn Miếu phải đi qua bốn vị thần, bước qua ba cửa cuốn để vào Văn Miếu. Theo con đường thẳng từ Văn Miếu đi vào là Đại Trung Môn gồm ba gian gạch. Con đường lát gạch sẽ tiếp tục đưa du khách đến với Khuê Văn Các là một lầu hình vuông gồm hai tầng tám mái. Đây là một biểu tượng của văn hóa chữ Việt Nam. Qua Khuê Văn Các đến giếng Thiên Quang, hình vuông, nước phẳng lặng quanh năm, con đường lát gạch quanh giếng Thiên Quang dẫn du khách đến nhà bia tiến sĩ gồm 82 tấm bia đá khắc các bài thi văn và tấm bia đặt trên lưng rùa tượng trưng cho quốc tinh túy. Qua nhà bia Tiến sĩ là đến một khoảng sân rộng được lát bằng gạch Bát Tràng. Khu cuối cùng là nhà Thái học, xưa là nơi đào tạo nhân tài. Văn Miếu là nơi tôn vinh nhà giáo kiệt xuất Chu Văn An và các vị vua có công.
Với giá trị văn hóa lịch sử to lớn, Văn Miếu Quốc Tử Giám còn là nơi được chọn để tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm và là nơi vinh danh những thủ khoa xuất sắc. Tháng 5 năm 2012, Văn Miếu được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt. Đây cũng là địa điểm du lịch nổi tiếng thu hút những du khách muốn tìm hiểu về văn hóa, lịch sử Việt Nam, nơi những người lính đến cầu may, là nơi được chọn để chụp ảnh kỷ yếu của các bạn học sinh. , học sinh,…
Vì đây là di tích quốc gia đặc biệt nên cần lưu ý một số điều cơ bản sau: Không xả rác bừa bãi, không bước lên thảm đỏ và không xoa đầu rùa, ăn mặc trang nghiêm, có thái độ chân thành, thánh thiện,. .
Dù có bao thăng trầm của thời gian, Văn Miếu - Quốc Tử Giám vẫn sẽ là một di tích mang đậm dấu ấn của một vùng quê giàu truyền thống khoa bảng và trở thành một biểu tượng đẹp của thủ đô Hà Nội.
Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Văn Miếu – Quốc Tử Giám – văn mẫu 2
“Mặt hồ Gươm còn lung linh mây trời, càng tỏa hương hoa thơm thủ đô…”. Nhắc đến Hà Nội là nhắc đến hình ảnh Hồ Gươm trong xanh và bóng Tháp Rùa nghiêng mình. Hồ Gươm và quần thể kiến trúc của nó đã trở thành một biểu tượng đẹp đẽ và thiêng liêng của Hà Nội - trái tim hồng của cả nước.
Hồ Gươm có từ lâu đời. Cách đây khoảng 6 thế kỷ, theo địa danh hiện nay, hồ gồm hai phần chạy từ phố Hàng Đào, qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt đến phố Hàng Chuối, thông với sông Hồng. Nước hồ trong xanh quanh năm nên hồ Gươm còn được gọi là hồ Lục Thủy.
Vào thế kỷ 15, hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm. Sự kiện đó gắn liền với truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng của vị khai quốc nhà Hậu Lê - vị anh hùng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh xâm lược (1417 - 1427) là Lê Lợi. Tương truyền, khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, có người tìm được một thanh gươm, rồi chính ông nhặt được một chuôi trong rừng. Khi lưỡi kiếm được gắn vào chuôi kiếm, thân kiếm ánh lên hai chữ "Thuận Thiên" - "Thuận theo ý trời". Thanh kiếm quý này đã theo Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Khi lên ngôi, định đô ở Thăng Long, trong một lần vua dạo chơi thuyền trên hồ Lục Thủy bỗng có một con rùa hiện lên. Rùa ngẩng đầu lên nói: “Xin trả gươm cho Long Quân”. Lê Thái Tổ hiểu sự tình bèn rút gươm ra khỏi vỏ, giơ gươm lên, gươm bay về phía rùa. Rùa ngậm gươm lặn xuống đáy hồ, từ đó hồ Lục Thủy có tên mới là hồ Hoàn Kiếm hay hồ Gươm. Chính truyền thuyết độc đáo này đã khẳng định lòng yêu hòa bình, căm thù chiến tranh của nhân dân Thăng Long - Hà Nội nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Câu chuyện này được nhấn mạnh trong ngày Hà Nội đón nhận danh hiệu “Thành phố vì hòa bình”.
Về sau, cũng vào thời Lê, hồ còn được dùng làm nơi tập luyện thủy binh nên có khi được gọi là hồ Thủy Quân.
Hồ Hoàn Kiếm là một thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội. Xung quanh hồ trồng nhiều loại hoa, cây cảnh. Đó là những rặng liễu rũ, những cành lộc vừng nghiêng mình và những bông hoa soi bóng xuống lòng hồ. Giữa hồ có tháp Rùa, cạnh hồ là đền Ngọc Sơn với “Tháp Bút chưa mòn”… Hình ảnh Hồ Gươm lung linh như một tấm gương soi tuyệt đẹp giữa lòng thành phố đã đã đi vào lòng biết bao người Hà Nội. Người Hà Nội sống quanh khu vực hồ có thói quen ra đây tập thể dục từ sáng sớm, nhất là vào mùa hè. Họ gọi những khu phố nằm xung quanh hồ là Lakeside.
Không phải là hồ nước lớn nhất Thủ đô, nhưng với nguồn gốc đặc biệt, hồ Hoàn Kiếm đã gắn liền với cuộc sống và suy nghĩ của nhiều người. Hồ nằm giữa trung tâm một quận với những khu phố cổ chật hẹp đã mở ra một không gian đủ rộng cho các hoạt động văn hóa bản địa. Hồ có nhiều cảnh đẹp. Và hơn thế nữa, hồ gắn liền với lịch sử huyền thoại, là biểu tượng của khát vọng hòa bình (trả gươm trả bút), đức thượng võ của dân tộc (gươm thiêng dưới đáy hồ và tháp bút). được viết trên bầu trời xanh). Vì vậy, nhiều văn nghệ sĩ đã lấy hình ảnh Hồ Gươm làm nền cho các tác phẩm của mình. Nhà thơ Trần Đăng Khoa từng viết:
“Hà Nội có Hồ Gươm”
Nước trong xanh như mực
Bên hồ Tháp Bút
Viết thơ lên trời"
Và như vậy, Hồ Gươm sẽ mãi sống trong tiềm thức của mỗi người dân Thủ đô nói riêng và người dân cả nước nói chung như một biểu tượng thiêng liêng của lịch sử, truyền thống văn hóa của dân tộc.
Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Chùa Một Cột
Chùa Một Cột nằm trong quần thể di tích chùa Diên Hựu, thôn Thanh Bảo, Quảng Đức vào thời kinh kỳ. Đến nay người ta gọi là chùa Một Cột ở Ba Đình gần Lăng Bác Hồ, Hà Nội.
Được khởi công xây dựng vào ngày 10/1049 âm lịch. Trước đây, chùa có nhiều tên gọi khác nhau như chùa Mật (Hán-Nôm), Diên Hựu tự, Liên Hoa Đài. Theo tìm hiểu, chùa được xây dựng theo giấc mộng của vua Lý Thái Tông (1028-1054). Một lần, vua Lý Thái Tông nằm mộng thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên tòa sen dẫn vua ra đài. Khi tỉnh dậy, vua nói với người hầu và được nhà sư Thiện Tuế gợi ý xây chùa và nhà vua đã dựa trên ý tưởng thiết kế của thiền sư Thiện Tuế để xây dựng chùa.
Ngôi chùa được thiết kế bằng gỗ, phần dưới là cột đá tượng trưng cho đài sen, phần trên là đài sen. Bên trong có tượng Phật Quan Âm để thờ. Đến năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho mở mang kiến trúc chùa và cho xây thêm hồ Linh Chiểu. Về sau, chùa chỉ còn là ngôi chùa nhỏ như ngày nay. Gồm một đài Liên Hoa hình vuông, chiều dài mỗi cạnh 3m, mái cong, dựng trên một cột đá cao 4m, đường kính 1,2m, hai cột đá chồng lên nhau thành một khối. Tiếp đến là hệ thống đòn bẩy để cân bằng đền bên trên. Ngôi chùa được xây nhô lên khỏi mặt nước là một công trình kiến trúc độc đáo. Bên dưới là hồ nước hình đế vương được bao bọc bởi những viên gạch tráng men xanh.
Năm 1840 - 1850, chùa một cột được trùng tu, tôn tạo, lần tiếp theo là năm 1920. Năm 1955, đài Liên Hoa do kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng sửa chữa. Năm 1995, ngôi Tam Bảo được trùng tu với tổng số tiền lên đến 500 triệu đồng, tiếp theo là trùng tu nhà Mẫu vào năm 1997 với kinh phí 200 triệu đồng.
Chùa Một Cột là một trong những danh lam thắng cảnh được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật vào tháng 4 năm 1962. Chùa Một Cột có ý nghĩa lịch sử, văn hóa to lớn. Đây cũng là biểu tượng của người Hà Nội ngàn năm văn hiến. Một điều có thể bạn không để ý đó là chùa Một Cột cũng được in ở mặt sau của đồng 5000 của Việt Nam.
Nếu có dịp du lịch Hà Nội 1 ngày thì chắc chắn bạn không thể bỏ qua một địa điểm đó là chùa Một Cột. Ngôi chùa tuy nhỏ nhưng là một nét văn hóa của dân tộc với nét kiến trúc độc đáo riêng. Chính điểm đặc biệt này mà hàng năm du khách đổ về đây rất đông và là địa điểm yêu thích của du khách trong và ngoài nước.
Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Động Phong Nha
Mỗi khi nhắc đến các địa điểm du lịch ở nước ta, người ta nghĩ ngay đến Vịnh Hạ Long, đảo Cát Bà, Phan Thiết,… nhưng một trong những địa danh nổi tiếng đó không thể thiếu động Phong Nha – một di sản văn hóa. thế giới hóa. Sự kỳ diệu của động Phong Nha đã mang đến cho du khách cảm giác như lạc vào xứ sở thần tiên. Động Phong Nha là món quà của thiên nhiên ban tặng cho nước ta.
Động Phong Nha nằm trong Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, một vườn quốc gia thuộc huyện Bố Trạch và Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500km. Phía nam. Phong Nha - Kẻ Bàng nằm trong vùng núi đá vôi rộng khoảng 200.000 ha. Vườn quốc gia bao gồm 300 hang động lớn nhỏ khác nhau. Nét đặc trưng của vườn quốc gia này là các thành tạo đá vôi, 300 hang động và sông ngầm, hệ động vật quý hiếm được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ thế giới. Các hang động ở đây có tổng chiều dài hơn 80km nhưng các nhà thám hiểm người Anh và Việt Nam mới khám phá được 20km. Tháng 4 năm 2009, một đoàn thám hiểm của Hiệp hội Hoàng gia Anh đã phát hiện ra một hang động khác lớn hơn nhiều so với động Phong Nha, nhưng động Phong Nha vẫn là hang động nắm giữ nhiều kỷ lục về cái “nhất”: động Phong Nha. nước dài nhất, cửa hang cao nhất, rộng nhất; bãi cát và bãi đá rộng và đẹp nhất; hồ nước ngầm đẹp nhất; những nhũ đá tráng lệ và huyền ảo nhất; sông ngầm dài nhất Việt Nam; Động khô lớn và đẹp nhất thế giới.
Trước đây, khi Phong Nha - Kẻ Bàng chưa là vườn quốc gia, khu vực này là khu bảo tồn thiên nhiên, từ ngày 9/8/1986 được mở rộng diện tích thêm 41132ha. Mãi đến ngày 12 tháng 12 năm 2001, người đứng đầu chính phủ mới ra nghị quyết chuyển khu bảo tồn thiên nhiên này thành công viên đa quốc gia và có tên như hiện nay.
Quá trình hình thành hang động là một quá trình khá dài. Từ những kiến tạo địa chất xảy ra trong lòng dãy núi đá vôi Kẻ Bàng vào thời kỳ Cổ sinh, địa chất nơi đây đã hoàn toàn thay đổi. Sự tác động của nội lực bên trong lòng đất và ngoại lực đã tạo nên vẻ đẹp huyền bí rất riêng của động Phong Nha. Hệ thống đứt gãy chằng chịt trên bề mặt đá vôi đã tạo điều kiện cho nước dễ dàng thấm vào các khối đá vôi. Xói mòn đã ăn mòn, hòa tan, cuốn trôi đá vôi hàng triệu năm. Qua đó đã tạo nên hang động nằm sâu trong lòng núi đá vôi.
Động Phong Nha bao gồm động khô và động nước, trong đó nổi bật nhất là động Tiên Sơn. Động Tiên Sơn có chiều dài 980m. Từ cửa hang đi vào khoảng 400m có một vực sâu khoảng 10m rồi đến hang đá ngầm dài gần 500m khá nguy hiểm. Du khách vào tham quan, để đảm bảo an toàn chỉ đi sâu 400m từ cửa hang. Động Thiên Sơn là nơi có những nhũ đá và phiến đá kỳ ảo. Những âm thanh phát ra từ các phiến đá khi đập vào sẽ vang vọng như tiếng chiêng. Theo các nhà khoa học thuộc Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh, hang động này được tạo ra cách đây hàng chục triệu năm, khi một dòng nước chảy qua lòng núi đá vôi Kẻ Bàng bị rỗng, xói mòn. Sau đó, do biến đổi địa chất, khối đá vôi bị sụp xuống, chặn dòng chảy và làm cho động Tiên Sơn trở nên khô cạn. Hệ thống hang động nước nổi bật nhất là động Phong Nha. Thiên nhiên đã tạo ra những nhũ đá nhiều màu sắc với hình dạng khác nhau. Vẻ huyền ảo ấy khiến ai đến thăm cũng phải trầm trồ khen ngợi. Động Phong Nha dài 7729m. Chiều dài nhất của hang là 145m. Động Phong Nha còn được gọi là Thủy Tề Tiên bởi ở đây những cột đá, nhũ đá dường như mang một phong cách rất khác lạ. Tiếng nước va vào đá vang xa. Động Phong Nha đẹp như một bức tranh thủy mặc khiến nhiều hang động khác phải trầm trồ.
Động Phong Nha không chỉ có giá trị về du lịch mà còn là di chỉ khảo cổ học. Các nhà thám hiểm và người dân nơi đây đã phát hiện ra nhiều bản khắc đá cổ, gạch, tượng đá, tượng Phật, mảnh gốm và nhiều bài vị tại đây. Trong động Phong Nha người ta đã phát hiện nhiều mẩu than và miệng bình gốm tráng men Chăm và các đồ gốm thô sơ khác. Động Phong Nha còn là nơi vua Hàm Nghi ở trong thời kỳ thực hiện chiếu Cần Vương chống Pháp.
Động Phong Nha - hang động tạo nên niềm tự hào cho dân tộc Việt Nam. Đó là bằng chứng về sự ưu đãi của thiên nhiên nước ta. Động Phong Nha đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Ai đã từng đến động sẽ nhớ mãi sự kỳ diệu mà động mang lại từ vẻ đẹp thiên nhiên trong lành.
Thuyết trình về một danh lam thắng cảnh - Làng Văn Hóa - Du Lịch Các Dân Tộc Việt Nam
Trong số rất nhiều địa điểm du lịch hiện nay, không phải địa điểm nào cũng được nhiều du khách ghé thăm. Tuy nhiên, nằm cách thủ đô Hà Nội khoảng 40 phút lái xe, có một điểm du lịch đặc biệt thu hút các bạn trẻ đến tham quan, đó chính là Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là một phần của khu du lịch Đồng Mô, thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, được khánh thành vào ngày 19 tháng 9 năm 2010 nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Từ nội thành đến đây mất khoảng 40 km. Đây là nơi có nhiều điểm tham quan hấp dẫn. Với diện tích khoảng 198,61 ha, khu làng các dân tộc được chia thành 4 cụm làng tương ứng với các vùng miền khác nhau. Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam được thiết kế với kiến trúc tái hiện các làng, bản của các dân tộc nhằm giới thiệu, bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa đặc sắc.
Từ cổng vào, du khách có thể thuê xe điện đưa vào các bản làng của các dân tộc với giá vé phải chăng: 30.000 đồng/người lớn và trẻ em dưới 6 tuổi được miễn phí vào cửa. Hành trình tham quan các bản làng theo nhu cầu của du khách. Điểm cuối là Tháp Chàm, chùa Khmer. Ngôi chùa Khmer được xây dựng với một màu vàng óng bao trùm. Chùa được thiết kế mái nhọn, trần rộng, cột lớn, bên trong có tượng Phật lớn. Tháp Chăm cao 21 m, nối với cửa vào là tháp Đông, tháp này được thiết kế tương đối giống tháp Chăm và được làm bằng đất sét nung. Tiếp đến du khách được tham quan khu nhà sàn Tây Nguyên mô phỏng theo kiểu nhà sàn, bên trong nhà sàn rất mát mẻ, ngoài ra còn có nhà sàn phục vụ du khách nghỉ trưa. Đình được xây dựng rất lớn với kết cấu mái cao đặc trưng. Từ đây, du khách có thể di chuyển đến bản văn hóa các dân tộc Thái với cánh đồng hoa tam giác mạch, nhà chính và tham gia nhiều hoạt động vui chơi, văn nghệ do nghệ nhân các dân tộc biểu diễn. Khung cảnh ở đây tương đối yên bình và thoáng mát, thích hợp để nghỉ dưỡng.
Tại khu du lịch, du khách sẽ thường xuyên tham gia các lễ hội. Các lễ hội đặc sắc thu hút du khách tham gia. Thông qua đó, giá trị của làng được phát huy. Hội xuân thường được tổ chức vào dịp đầu năm, nhiều trò chơi dân gian được tổ chức như đu quay, ném bóng,..
Có thể khẳng định, Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam là nơi tái hiện những giá trị văn hóa đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. Đây là điểm tham quan du lịch vô cùng lý tưởng đối với du khách trong nước cũng như quốc tế. Qua chuyến tham quan này, chúng ta hiểu thêm về những nét đặc sắc của dân tộc Việt Nam, đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí lành mạnh, hoạt động thể thao, dưỡng sinh, văn nghệ,…
Thông qua những điểm tham quan độc đáo và các hoạt động văn hóa, nghệ thuật với nội dung, hình thức phong phú, hấp dẫn, tái hiện chân thực bản sắc dân tộc, Làng văn hóa các dân tộc đã giúp mỗi người khi đến đây bồi đắp thêm tình yêu quê hương đất nước và tinh thần đoàn kết các dân tộc anh em.
Bạn xem bài Top 50 bài Tự sự về một danh lam thắng cảnh (hay nhất) Bạn đã khắc phục được lỗi phát hiện chưa?, nếu chưa, vui lòng đóng góp ý kiến thêm cho Top 50 Bài thuyết minh về danh lam thắng cảnh (hay nhất) bên dưới để pgddttramtau.edu.vn thay đổi & hoàn thiện nội dung. nội dung tốt hơn cho bạn! Cảm ơn quý vị đã ghé thăm Website: pgddttramtau.edu.vn của PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN TRÂM TÀU
Nhớ dẫn nguồn bài viết này: Top 50 bài Tự sự về một danh lam thắng cảnh (hay nhất) của website pgddttramtau.edu.vn
Thể loại: Văn học
Xem thêm: chibi vẽ pikachu cute
Bình luận