Văn mẫu lớp 10: Thuyết minh về nhà thơ Nguyễn Trãi vừa được Tip.edu.vn sưu tầm và gửi tới bạn đọc tham khảo. Bài viết bao gồm các bài văn mẫu hay để các em tham khảo và củng cố những kĩ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các bạn tham khảo và tải về tại đây.
- TOP 8 bản Bình Ngô Đại Cáo
Nguyễn Trãi
- Lập dàn ý thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi – Văn mẫu 1
- Lập dàn ý thuyết minh về Nguyễn Trãi – Văn mẫu 2
- Tả về Nguyễn Trãi – Mẫu 1
- Thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi – Mẫu 2
- Thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi – Mẫu 3
- Thuyết minh về cuộc đời Nguyễn Trãi – Văn mẫu 4
- Thuyết minh về cuộc đời Nguyễn Trãi – Văn mẫu 5
- Thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi lớp 10 – Văn mẫu 6
- Tả về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi – Văn mẫu 7
- Thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi – Văn mẫu 8
- Tả về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi – Văn mẫu 9
Lập dàn ý thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi – Văn mẫu 1
1. Mở bài
Vài nét về tác giả Nguyễn Trãi.
Lưu ý: học sinh lựa chọn viết phần mở đầu trực tiếp hay gián tiếp tùy theo khả năng của bản thân.
2. Cơ thể
Một. Cuộc đời tác giả Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi (1380 – 19 tháng 9, 1442), hiệu là Ức Trai, là nhà chính trị, nhà văn lớn.
Nguyễn Trãi đi thi, đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi làm quan dưới triều Hồ với chức Phụ chính.
Nguyễn Trãi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống ách thống trị của nhà Minh. Ông trở thành quân sư của nghĩa quân Lam Sơn, hoạch định chiến lược cũng như soạn thảo văn kiện ngoại giao với quân Minh. Ông tiếp tục phục vụ dưới hai triều vua Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông với các chức Nội Kiểm, Thừa Chỉ.
Năm 1442, cả gia tộc Nguyễn Trãi bị kết án tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu đại xá cho ông.
Do luôn “lo việc dân phải lo, vui nước sau vui dân” nên Nguyễn Trãi luôn sống giản dị, cần kiệm, liêm chính. Nhà ông ở Đông Kinh (Thăng Long) chỉ là một túp lều tranh (lều một gian ở góc phía nam). Khi ông đi cầm quân ở các đảo Đông Bắc, ngôi nhà của ông ở Côn Sơn “bốn bề trống trải, chỉ có sách vở là phú” (thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi). Năm 1442, án oan “Lệ Chi Viên” bất ngờ giáng xuống hại ông. Ông và gia đình đã phải gánh chịu tội ác thảm khốc nhất trong tam tộc trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Mãi đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông mới ra sắc dụ minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan, tìm con cháu còn sống và phong ông làm quan.
Ông đã để lại cho kho tàng văn học nhiều tác phẩm có giá trị: về quân sự và chính trị có bộ “Quân Trung từ mệnh” gồm những bức thư ông viết trong việc đối phó với quân Minh. Những bức thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh tài ngoại giao rất tài tình trong việc dụ địch của Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã khiến quân Lam Sơn không tổn thất xương máu mà hạ được nhiều thành.
“Bình Ngô Đại Cáo” là bản hùng ca “Thiên cổ hùng văn” trong lịch sử, tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh và mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước… Về lịch sử có “Lam Sơn Thực Lục” như cuốn Lịch sử khởi nghĩa Lam Sơn và Dư địa chí viết về địa lý nước ta thời bấy giờ. Về văn chương, Nguyễn Trãi có Ức Trai Thiết và Quốc Âm Thiết
Quốc Âm Thiết Tập được viết bằng chữ Nôm, đánh dấu sự hình thành của thơ ca Việt Nam. Ông là người đi đầu trong việc gây ra cuộc nổi dậy thơ Nôm trong hàng ngàn hàng vạn dày đặc văn học Trung Quốc đương thời.
Ngoài ra, thơ văn của ông còn thấm nhuần tư tưởng nhân văn, triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên, nổi bật trong thơ Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa với nội dung yêu nước, thương dân. Yêu nước gắn liền với thương dân, nhân nghĩa để yên dân – đó là tư tưởng chủ đạo của cuộc đời Nguyễn Trãi. Thơ Nguyễn Trãi thể hiện những triết lí nhân sinh sâu sắc mà giản dị, những kinh nghiệm đau thương của cuộc đời. Và trong thơ ông cũng tràn đầy tình yêu thiên nhiên, với ông thiên nhiên là người bạn đồng hành, là gia đình ruột thịt của ông.
Thơ văn Nguyễn Trãi là một đỉnh cao chói lọi trong nền văn học nước nhà, ông là nhà văn có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà, cùng với những slide, bảng, ghi, ông đã xây dựng một nền tảng văn hóa. hệ tư tưởng cho dân tộc. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là một thế giới thẩm mỹ phong phú, vừa trữ tình, vừa trí tuệ, vừa hào hùng, vừa lãng mạn. Về thơ Nôm, Nguyễn Trãi là người tiên phong, để lại một tập thơ cổ nhất và nhiều nhất. Đó là những bài thơ giàu trí tuệ, sâu sắc, thấm đẫm kinh nghiệm sống, được viết bằng ngôn ngữ trong sáng, trau chuốt, bút pháp cổ điển. Nguyễn Trãi là nhà thơ sớm đưa ca dao tục ngữ vào tác phẩm của mình, ông cũng là người sáng tạo ra thể thơ thất ngôn lục bát, khác hẳn với Đường luật. Có thể nói, Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, có đức, có đủ dũng và liêm trong lịch sử Việt Nam thời phong kiến. “Bình Ngô Đại Cáo” của ông là một “thiên cổ hùng văn”. Đó là một bản anh hùng ca bất hủ của dân tộc.
Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, ông không chỉ góp phần viết nên những trang hào hùng trong lịch sử giữ nước của dân tộc mà còn góp phần xây dựng nền móng vững chắc cho nền văn học dân tộc. Nguyễn Trãi nêu cao lí tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân, thiết tha gắn bó với cảnh sắc thiên nhiên đất nước, thể hiện tình yêu đối với chữ Việt. Tâm hồn và sự nghiệp của ông sẽ mãi mãi là ngôi sao sáng như Lê Thánh Tông đã truy tặng “Ức Trai, tâm Khuê Tảo”. Thời gian có thể phủ đầy rêu phong nhưng ánh sao ấy vẫn soi sáng cho thế hệ mai sau. Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Thuyết minh về cuộc đời Nguyễn Trãi – Văn mẫu 5
Nguyễn Trãi là một nhà yêu nước trung kiên, yêu nước tha thiết, là nhà quân sự tài ba, là nhà văn, nhà thơ kiệt xuất. Nguyễn Trãi đúng là một đại văn hào của dân tộc, có nhiều đóng góp to lớn cho dân tộc, nhưng lại là người chịu nhiều bất hạnh oan uổng nhất trong lịch sử phong kiến nước ta.
Nguyễn Trãi tên húy là Ức Trai, sinh năm 1380 mất năm 1442, quê ở Nhị Kê (Hà Tây), cha là Nguyễn Phi Khanh, mẹ là Trần Thị Thái, cháu nội của Trần Nguyên Đán, xuất thân từ dòng dõi quý tộc. Ông là người thông minh từ nhỏ, rất siêng học, năm 1400 đỗ Thái học sinh. Cuộc đời Nguyễn Trãi trải qua nhiều thăng trầm, năm 6 tuổi mẹ mất, ông đỗ Thái học sinh năm 20 tuổi. Hai cha con đều ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang Tàu, Nguyễn Trãi theo phụng dưỡng cha. Để rồi 10 năm sau ông trở về và làm nên chiến công cho dân tộc.
Sau khi đất nước thanh bình trở lại, chán ngán chốn quan trường, ông xin ở ẩn. Năm 1440 Lê Thái Tông mời ông ra giao việc lớn. Ông đã giúp nhà vua rất nhiều trong việc cai trị đất nước. Mọi việc đang diễn ra rất tốt đẹp thì vua đột ngột băng hà, kẻ gian bày mưu giết vua, chuốc lấy chu vi tam tộc năm 1442. Nguyễn Trãi và gia đình phải mang nỗi oan đó suốt 20 năm ròng rã. Mãi đến năm 1464, Lê Thánh Tông mới giải oan cho Nguyễn Trãi, ra chiếu truy phong các hậu duệ còn lại của Nguyễn Trãi và phong cho làm quan.
Không những thế Nguyễn Trãi còn để lại cho đời sau nhiều tác phẩm có giá trị cho kho tàng văn học dân tộc. Sau khi bị dính líu đến vụ giết vua, nhiều tác phẩm của ông đã bị ra lệnh tiêu hủy. Sau nhiều năm, những tác phẩm có giá trị này đã được thu thập. Ông đã để lại một kho tàng văn học với nhiều tác phẩm có giá trị: về quân sự và chính trị, Nguyễn Trãi có “Quân trung từ mệnh tập” gồm các thư từ, văn bản đối phó với giặc Minh và triều đình nhà Lê. .
“Bình Ngô Đại Cáo” là “Thiên cổ hùng văn” trong lịch sử, tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh và mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước… Về chính sử có “Lam Sơn Thực Lục” sách lịch sử khởi nghĩa Lam Sơn và “Dự địa chí” viết về địa lý nước ta thời bấy giờ. Về văn học, Nguyễn Trãi có “Theo chí tu tập, Quốc Âm thi tập”. “Quốc Âm Thi Tập” được viết bằng chữ Nôm, đánh dấu sự hình thành của nền thơ ca Việt Nam.
Thơ văn Nguyễn Trãi luôn thấm nhuần tư tưởng nhân văn, triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên, nổi bật trong văn thơ Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa với nội dung yêu nước, thương dân. Ông luôn một lòng một dạ suy nghĩ, tìm mọi cách đem lại bình yên cho nhân dân. Anh yêu thiên nhiên và coi thiên nhiên là người bạn đồng hành của mình.
Ông để lại nhiều tác phẩm thơ chữ Hán với thế giới thẩm mỹ phong phú, vừa trữ tình, vừa trí tuệ, vừa hào hùng, vừa lãng mạn. Về thơ Nôm, Nguyễn Trãi là người đi tiên phong và để lại cho hậu thế những vần thơ giàu trí tuệ, sâu sắc, thấm đẫm kinh nghiệm sống, được viết bằng ngôn ngữ trong sáng tinh tế, bút pháp bác học. Nguyễn Trãi là nhà thơ sớm đưa ca dao tục ngữ vào tác phẩm của mình, ông cũng là người sáng tạo ra thể thơ thất ngôn lục bát, khác hẳn với Đường luật. Có thể nói, Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, có đức, có đủ dũng và liêm trong lịch sử Việt Nam thời phong kiến.
Nguyễn Trãi thực sự là một danh nhân lẫy lừng của dân tộc, ông đã đặt nền móng cho nền văn học nước nhà, có công lao to lớn trong việc dựng nước và giữ nước. Ông là người đã cống hiến cả cuộc đời mình để lo cho nhân dân và đất nước. Ghi nhớ công lao của Nguyễn Trãi, năm 1980, Nguyễn Trãi được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.
Thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi lớp 10 – Văn mẫu 6
Ký ức của tâm trí của tâm trí
Nguyễn Trãi không chỉ được người đời kính phục bởi tài quân sự mà còn là một con người trung nghĩa, yêu nước, yêu quê hương tha thiết. Văn võ song toàn, cống hiến trọn đời và có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp cứu nước và dựng nước, thật xứng đáng là bậc anh hùng của nước ta. Với tài thao lược quân sự, lời lẽ trau chuốt của một nhà ngoại giao chính trị, và lối viết thiết tha, mượt mà của một nhà văn hóa, Nguyễn Trãi xứng đáng là đại văn hào của dân tộc. Nhưng ông cũng phải gánh chịu những bất hạnh oan uổng nhất trong lịch sử phong kiến nước ta.
Nguyễn Trãi không chỉ có tài chính trị, quân sự mà còn là một vị quan thanh liêm, hết lòng vì dân vì nước. Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu là Ức Trai, quê ở Chí Linh – Hải Dương, sau dời về Hà Tây. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước và văn hiến, văn học. Cha là Nguyễn Phi Khanh, Thái học sinh (tiến sĩ) thời Trần. Mẹ bà là Trần Thị Thái – con của Tư đồ (Tể tướng) Trần Nguyên Đán. Tuổi thơ của Nguyễn Trãi chịu nhiều mất mát: 5 tuổi để tang mẹ, 10 tuổi để tang ông ngoại. Năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh, hai cha con cùng làm quan cho nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang Trung Quốc. Ông đã ghi sâu lời căn dặn của cha là Nguyễn Trãi gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Cuối năm 1427 đầu năm 1428, khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, Nguyễn Trãi vâng lệnh Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo”. Năm 1439, triều đình loạn, gian thần hoành hành, trung thần bị sát hại, Nguyễn Trãi xin ở lại Côn Sơn. Năm 1440, Nguyễn Trãi được Lê Thái Tông mời ra giúp nước. Ông nhiệt tình phò vua giúp nước cứu đời. Năm 1442, Nguyễn Trãi bị kết án oan ở Lệ Chi Viên và bị tru di tam tộc. Năm 1464, Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, nhà văn hóa lớn. Năm 1980, UNESCO công nhận Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa thế giới.
Nguyễn Trãi đã để lại cho nền văn học Việt Nam một sự nghiệp sáng tác văn học có giá trị to lớn. Nguyễn Trãi sáng tác nhiều thể loại, viết bằng chữ Nôm và chữ Hán, thành công ở cả thể loại văn chính luận và thơ trữ tình. Ông đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ, có giá trị đối với nền văn học nước nhà. Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận xuất sắc. Với “Quân trung từ mệnh bộ” (sức mạnh bằng vạn quân), “Bình Ngô đại cáo” và nhiều văn, biểu khác, Nguyễn Trãi được coi là bậc thầy của văn chính luận trung đại. Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt các áng văn chính luận của Nguyễn Trãi là nhân nghĩa, yêu nước thương dân. Về nghệ thuật, văn chính luận của Nguyễn Trãi đạt đến mức mẫu mực trong việc xác định đối tượng, mục đích để sử dụng biện pháp phù hợp; Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén. Nguyễn Trãi còn là một nhà thơ trữ tình sâu sắc. Hai tập thơ “Ức Trai Thi Tập” (chữ Hán) và “Quốc Âm Thi Tập” (chữ Nôm) đã khắc họa hình tượng người anh hùng vĩ đại với lý tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân. , mãnh liệt; phẩm chất và ý chí rực rỡ.
Hoa thường héo, cỏ thường tươi.
Thơ trữ tình Nguyễn Trãi đã có những đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà từ việc phát triển ngôn ngữ (chữ Nôm), Việt hóa thể thơ Đường Ca để tạo nên thể thơ thất ngôn bát cú. Thơ Nguyễn Trãi giàu hình ảnh ước lệ nhưng cũng phảng phất hơi thở cuộc sống, vừa thanh tao vừa giản dị. Nguyễn Trãi là một thiên tài văn học của dân tộc, Nguyễn Trãi vừa kết hợp tinh thần của truyền thống văn học Lý – Trần, vừa mở đường cho một giai đoạn phát triển hoàn toàn mới. Xét về nội dung, thơ Nguyễn Trãi chưa xếp được hai cảm hứng dân tộc: yêu nước và nhân nghĩa. Về nghệ thuật, thơ văn Nguyễn Trãi có đóng góp to lớn cho nền văn học dân tộc cả về thể loại và ngôn ngữ.
Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, ông là anh hùng dân tộc, nhà chí sĩ, nhà thơ, nhà văn hoá của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông sẽ mãi mãi là vì sao, như Lê Thánh Tông đã truy tặng “Ức Trai tâm Khuê Tảo”.
Tả về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi – Văn mẫu 7
Nói đến Nguyễn Trãi là nói đến vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. “Nguyễn Trãi đội trời Việt Nam, chân đất Việt Nam, hồn gió thời đại” (Phạm Văn Đồng).
Nguyễn Trãi (1380 – 1442), hiệu là Trãi, quê ở Chi Ngải (Hải Dương), sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Nội). Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước và văn hiến, văn học. Ông tên khai sinh là Nguyễn Ứng Long (sau đổi là Nguyễn Phi Khanh), nhà nghèo học giỏi, đỗ đạt. Mẹ là Trần Thị Thái, con của quan Trần Nguyên Đán
Cuộc đời Nguyễn Trãi trải qua nhiều thăng trầm: Biến cố trong gia đình (mẹ mất năm 5 tuổi, ông 27 tuổi, cha và em bị đày sang Trung Quốc). Những biến cố của đất nước (Nhà Hồ lên thay nhà Trần, giặc Minh sang xâm lược, Lê Lợi lập nhà Hậu Lê, triều đình chia rẽ, rối ren trong thời bình).
Sống trong một thời đại hào hùng của lịch sử, cuộc đời của Nguyễn Trãi là cuộc đời của một anh hùng lừng lẫy nhưng bất công và bi thảm nhất trong lịch sử.
Nguyễn Trãi sớm khắc sâu nợ nước, thù nhà từ lời dặn của vua cha năm 1407.
Nguyễn Trãi có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và chống quân Minh xâm lược. Ông tham gia cuộc khởi nghĩa năm 1417 với tư cách là một cố vấn tài ba. Cuối năm 1427, đầu năm 1428, Nguyễn Trãi vâng lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô Đại cáo. Sau đó, ông hăng hái tham gia công cuộc xây dựng đất nước.
Nguyễn Trãi không thực hiện được hoài bão của mình trong thời bình. Những mâu thuẫn nội bộ trong triều đình phong kiến đã dẫn đến việc các cận thần bị sát hại. Nguyễn Trãi Tùng bị nghi oan, bị bắt rồi được thả. Hoàn cảnh đó buộc ông phải lánh nạn ở Côn Sơn. Chỉ mấy tháng sau, vua Lê Thái Tông lại sai ông ra làm quan. Đáng tiếc, ba năm sau (1442), nhà vua đột ngột qua đời khi đi thăm phương Đông. Bọn gian nhân nhân cơ hội này vu cáo Nguyễn Trãi, phong ông làm quan ba châu. Năm 1464, Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi và sưu tầm thơ văn của ông.
Ông là bậc đại anh hùng của dân tộc, là người góp phần làm nên trang sử vẻ vang của nhà Hậu Lê. Đồng thời cũng là kẻ bị oan ức nhất trong lịch sử. Bên cạnh đó, ông còn là người tài giỏi hiếm có, có nhiều cống hiến xuất sắc trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa, văn học. Năm 1980, ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.
Ông có một sự nghiệp văn chương đồ sộ với đủ các thể loại văn tự chữ Hán, chữ Nôm, chính luận và thơ trữ tình. Các tác phẩm viết bằng chữ Hán gồm: Quan Trung từ mệnh, Đại cáo bình Ngô, Ức Trai thi tập, Lam Sơn thực lục, Vĩnh Lăng văn bia… Sáng tác bằng chữ Nôm với Quốc âm thi tập (254 bài thơ chữ Nôm) được viết theo thể Đường luật, Đường luật xen lẫn Lục ngữ. Ngoài ra, ông còn để lại Dư địa chí – bộ sách cổ nhất về địa lý ở nước ta.
Nguyễn Trãi là một nhà văn chính luận xuất sắc vì ông đã để lại một số lượng lớn các tác phẩm chính luận. Tiêu biểu như: Quan Trung Từ mệnh tập, Đại cáo bình Ngô, Chiếu Biểu thời Lê.
Về giá trị nội dung, các bài chính luận của ông đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh và dựng nước của triều đại Hậu Lê. Quân lệnh từ bộ chỉ huy gồm các thư gửi tướng địch và các văn bản giao thiệp với triều đình nhà Minh. Tác phẩm là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tinh thần yêu nước, nhân nghĩa và nghệ thuật viết chính luận điêu luyện của Nguyễn Trãi.
Bình Ngô Đại Cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta, là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của quân thù, là bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, là áng văn yêu nước của thời đại. Đặc biệt, nền tảng của những giá trị đó dựa trên tư tưởng nhân nghĩa và yêu nước hòa quyện với nhau.
Về giá trị nghệ thuật, văn chính luận của Nguyễn Trãi hấp dẫn ở kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, lối hành văn linh hoạt tùy theo đối tượng và mục đích sử dụng.
Thơ Nguyễn Trãi là tâm hồn ông trong sáng, tràn đầy sức sống. Cả hai tập thơ Quốc Âm Thi Tập và Ức Trai Thiết đều khắc họa hình ảnh Nguyễn Trãi vừa là bậc đại anh hùng, vừa là một con người.
Nhân cách anh hùng của Nguyễn Trãi thể hiện ở hai phương diện: lí tưởng anh hùng và phẩm chất anh hùng. Lý tưởng anh hùng là sự kết hợp giữa lòng nhân nghĩa với lòng yêu nước, thương dân. Còn phẩm chất anh hùng thể hiện ở sự mạnh mẽ, kiên trung, vì nước, vì dân chống giặc ngoại xâm, chống bạo quyền.
Đồng điệu với con người anh hùng, trong tâm hồn Nguyễn Trãi cũng có con người phàm trần. Nguyễn Trãi đau nhân và yêu tình người. Nguyễn Trãi khổ cho mình thì ít, khổ cho đời thì nhiều. Ông thường than thở về cuộc đời đen bạc: “Phượng mà cao thì quăng đi/ Hoa thường héo mà cỏ thì luôn tươi”. Ông khao khát cuộc sống thái bình thịnh trị cho nhân dân: “Một năm ba chén rượu đổi danh! cầu mong một ngày thấy đời bình yên”.
Tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người, cuộc sống của Nguyễn Trãi. Và đặc biệt, với Nguyễn Trãi: “Tình yêu thiên nhiên vạn vật là thước đo tâm hồn” (Xuân Diệu). Chất mộc mạc, giản dị trong thơ Nôm của ông tạo nên một môi trường sống cao thượng, ở đó con người giữ được vẻ đẹp trong sáng trong tâm hồn: “Vuốt tre bước qua suối/ Vui chơi ngày mai đạp bóng. trăng”. Ông đến với thiên nhiên như với một người bạn tri kỷ để gửi gắm triết lý và tình cảm gần gũi: “Con cò nằm trên thân cò nên ở bên ta/ Ôm ấp ta như con nhỏ” mà Nguyễn Trãi luôn dành cho những tình cảm thân thương, ấm áp với bạn bè, người thân, xóm làng, quê hương…
Có thể nói, khía cạnh con người trong thời đại anh hùng của Nguyễn Trãi chính là vẻ đẹp nhân bản góp phần nâng người anh hùng dân tộc lên ngang tầm con người.
Nguyễn Trãi là một nhà thơ trữ tình kiệt xuất bởi ông đã đóng góp cho nền thơ ca Việt Nam những thành tựu nghệ thuật kết tinh ý nghĩa trên cả hai phương diện cơ bản là thể loại và ngôn ngữ. Thể thơ bảy chữ xen thơ lục bát là những cố gắng lớn của ông trên con đường Việt hóa thơ Đường luật. Ông còn đưa vào thơ mình chất liệu chắt lọc từ ngôn ngữ đời thường và vận dụng sáng tạo thơ ca dân gian (ca dao, tục ngữ…).
Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa lớn của dân tộc. Ông trở thành một hiện tượng văn học kết tinh truyền thống văn học Lý – Trần, đồng thời mở ra một giai đoạn phát triển mới. Về nội dung: Văn chương của Nguyễn Trãi hội tụ hai nguồn cảm hứng là yêu nước và nhân nghĩa. Nguyễn Trãi đã đưa ý thức dân tộc đến đỉnh cao của sự kết tinh tư tưởng trung đại Việt Nam. về nghệ thuật: Nguyễn Trãi là người đầu tiên đặt nền móng cho thơ ca Việt Nam về ngôn ngữ và thể loại. Ông để lại tập thơ Nôm sớm nhất, là di sản thơ Nôm độc đáo của Việt Nam. Cho đến nay, chúng ta vẫn tiếp thu và phát huy những thành tựu văn thơ, văn hiến của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi trường tồn với thời gian với tư cách là vị anh hùng dân tộc tài ba nhưng cũng là kẻ bị oan ức nhất trong lịch sử. Nguyễn Trãi vừa là nhà thơ kiệt xuất, vừa là danh nhân văn hóa thế giới. Thơ chữ Hán cũng như thơ Nôm, chính luận hay trữ tình đều phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của một vĩ nhân cũng như đời thường. Ông là hoa khôi đầu tiên của thơ Nôm Việt Nam.
Thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi – Văn mẫu 8
Nguyễn Trãi, bậc đại anh hùng, không chỉ thể hiện tài năng quân sự mà còn hết lòng yêu nước, trung nghĩa, yêu nước. Anh ấy đã thể hiện trình độ quân sự của mình và cũng là một anh hùng. Nguyễn Trãi là bậc anh tài văn võ của dân tộc nhưng lại phải chịu nhiều oan trái và trở thành bi kịch trong lịch sử nước ta.
Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là Ức Trai, quê quán ở tỉnh Hải Dương. Anh lớn lên trong một gia đình có bố và mẹ đều là những người nổi tiếng.
Nguyễn Trãi khi còn nhỏ đã phải chịu nhiều đau thương như mồ côi mẹ năm 5 tuổi, mồ côi ông nội năm 10 tuổi. Năm 1400, khi nhà Hồ tổ chức kỳ thi Hội, ông đỗ Thái học sinh, cha và con trai cùng làm quan nhà Hồ.
Năm 1407, giặc Minh sang xâm lược nước nhà, nhà Hồ sụp đổ, cha là Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang Tàu, Nguyễn Trãi uất ức nhưng không thể làm gì khác nên gia nhập nghĩa quân Lam Sơn đánh trả. chống quân Minh xâm lược.
Năm 1428, khởi nghĩa Lam Sơn đánh tan quân Minh xâm lược thắng lợi, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo”.
Sau một thời gian làm quan, đến năm 1439, triều đình có nhiều biến động khi gian thần giả tràn lan khắp nơi. Chán nản, Nguyễn Trãi xin vua về ở ẩn.
Năm 1440, Lê Thái Tông chiêu mộ nhân tài nên mời ông ra làm quan, giúp nước. Ông đã nghe lời nhà vua và cố gắng cứu người dân. Năm 1442, vợ chồng Nguyễn Trãi dính án oan Lệ Chi Viên hại vua, bị kết tội tru di tam tộc.
Ông và gia đình ông đã bị chặt đầu trong ba thế hệ. Lệ Chi Viên là vụ án bi thảm nhất trong lịch sử nước nhà.
Mãi đến năm 1464, Lê Thánh Tông mới chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi được công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới năm 1980.
Nguyễn Trãi đã có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà. Ông sáng tác nhiều tác phẩm chữ Nôm, chữ Hán, chính luận, thơ trữ tình.
Các tác phẩm đặc sắc như “Quân Trung từ mệnh tập”, “Bình Ngô Đại Cáo” và nhiều điển tích, biểu có giá trị khác. Tư tưởng chính của ông là nhân nghĩa, yêu nước và yêu nhân dân. Hai tập thơ “Ức Trai Thi Tập” (chữ Hán) và “Quốc Âm Thi Tập” (chữ Nôm) là một trong những tác phẩm vô cùng giá trị.
Thơ trữ tình của ông giản dị, giàu hình ảnh tượng trưng. Nguyễn Trãi là một thiên tài văn học nổi tiếng với sự kết tinh tinh thần của văn học Lý – Trần. Nội dung, thơ văn Nguyễn Trãi có sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc.
Nguyễn Trãi là một nhân vật có ảnh hưởng lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông là một thiên tài quân sự và giàu lòng yêu nước, thương dân. Cũng như vua Lê Thánh Tông đã truy tặng “Ức Trai tâm Khuê Táo”. Tên anh sẽ mãi sáng như ánh sao, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Tả về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi – Văn mẫu 9
Nguyễn Trãi (1380-1442) là vị anh hùng dân tộc vĩ đại, nhân vật toàn tài hiếm có trong lịch sử nước nhà, danh nhân văn hóa thế giới, nhưng đồng thời cũng là người chịu nhiều bất công thảm khốc nhất. trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.
Nguyễn Trãi xuất thân trong một gia đình nghèo, cha là nhà Nho, mẹ là quan đại thần nhà Trần. Nguyễn Trãi mồ côi mẹ sớm, được ông nội là Trần Nguyên Đán nuôi nấng từ nhỏ.
Ông thi đỗ và cùng cha làm quan cho nhà Hồ năm 1400. Năm 1407, giặc Minh sang cướp nước ta, cha của Nguyễn Trãi bị bắt đem về Tàu, Nguyễn Trãi theo cha, nhưng khi ông Đến nơi biên ải, vâng lời cha, Nguyễn Trãi trở về tìm đạo rửa nước.
Ông bị quân Minh bắt giam 10 năm ở thành Đông Quan, rồi trốn thoát, vào Lam Sơn phò tá Lê Lợi tiến hành cuộc kháng chiến chống quân Minh đến năm 1427 toàn thắng.
Ông một lòng khai khẩn, xây dựng đất nước, nhưng lại bị gian thần ghen ghét, nghi ngờ, không mấy tin tưởng.
Năm 1439, ông xin ở ẩn, nhưng đến năm 1440, vua trẻ Lê Thái Tông mời ông ra giúp nước.
Năm 1442, vua đi duyệt võ ở Chí Linh, thăm Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, rồi đột ngột băng hà ở Lệ Chi Viên. Nguyễn Trãi bị vu cáo giết vua, bị tru di tam tộc.
Năm 1464, vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi, tìm gặp con cháu, sưu tầm thơ văn và khẳng định nhân cách, tấm lòng, tâm hồn cao cả của Nguyễn Trãi với câu nói nổi tiếng “Ức Trai có tấm lòng tảo sáng”.
Nguyễn Trãi là nhà chính trị, quân sự, nhà giáo dục, nhà lập pháp tài ba của dân tộc ta. Không chỉ vậy, ông còn là cây đại thụ đầu tiên của nền văn học Việt Nam. Ông là tác giả xuất sắc của nhiều thể loại văn học cả về chữ Hán và chữ Nôm. Ông đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ với nhiều tác phẩm có giá trị. Đó là “Đại cáo bình Ngô”, “Quan Trung từ mệnh”…
Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất của nền văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo được coi là “áng thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. “Quân đội từ bộ chỉ huy” được đánh giá là “sức mạnh của 100.000 quân”. Các tác phẩm chính luận có luận cứ vững chắc, lập luận sắc bén, giọng văn linh hoạt. Trong đó luận điểm cơ bản cốt lõi là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân.
Ông cũng là một nhà thơ trữ tình sâu sắc. Thơ ông bộc lộ tâm hồn, con người ông từ cái bình thường, trần thế hòa lẫn với cái anh hùng vĩ đại. Đọc thơ Nguyễn Trãi ta thấy nỗi lo nước người về nước, khí phách thanh cao, tình yêu thiên nhiên cây cỏ của ông.
Nguyễn Trãi đã có đóng góp to lớn trong việc phát triển chữ Nôm và Việt hóa thơ Đường qua việc vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ thất ngôn xen lục ngôn. Nguyễn Trãi đã đưa vào thơ mình những hình ảnh dân gian gần gũi, quen thuộc một cách tự nhiên và tinh tế.
Ông được coi là một thiên tài văn học, một hồn thơ kết tinh những tinh hoa của văn hóa Lý-Trần, mở đầu cho một giai đoạn thơ ca viết bằng tiếng Việt hoàn toàn mới. Thơ ông hội tụ hai nguồn cảm hứng lớn của nền văn học dân tộc: yêu nước và nhân đạo.
—————————
Trên đây là tuyển tập những bài văn mẫu hay nhất về tác giả Nguyễn Trãi dành cho học sinh lớp 10 tham khảo. Mặt khác, Reading cũng mong muốn các em học sinh có thể tham khảo thêm những bài văn mẫu lớp 10 được chọn lọc trong cả năm theo đúng chương trình học để nâng cao khả năng viết văn tự sự của mình!
- Bình giảng bài phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu
- Tả cổng trại ngày xuân
- Viết đoạn văn thuyết minh về tình yêu thiên nhiên và tâm hồn của Nguyễn Trãi
tip.edu.vn hướng dẫn bạn học tốt Bài văn mẫu lớp 10: Cảm nhận về tác giả Nguyễn Trãi. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi thêm nội dung của bài rồi phải không? Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu để học tốt môn Văn lớp 10 hơn. Ngoài ra, các bạn có thể Soạn bài Ngữ văn 10 được tip.edu.vn sưu tầm và chọn lọc để học tốt Ngữ Văn 10. Nhằm giúp bạn đọc có thêm tài liệu học tập, Tip.edu.vn mời các bạn cùng tìm hiểu tiếp. Bạn đọc cũng có thể tham khảo thêm một số tài liệu ôn tập môn Toán lớp 10, Tiếng Anh lớp 10…
Bài tiếp theo: Tường thuật về tội phạm ma túy