Đề tài: Phân tích một số câu Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất.
Dưới đây là một số bài văn mẫu phân tích các câu tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất hay nhất:
Nhân dân ta có thói quen vận dụng tục ngữ vào lời nói và việc làm trong cuộc sống để làm cho lời nói thêm đẹp đẽ, sinh động. Sau đây là một số câu tục ngữ đúc kết những quan sát về các hiện tượng tự nhiên và nêu ra những kinh nghiệm quý báu trong lao động sản xuất:
Nội dung chính
Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất học lớp 7
1. Đêm tháng năm chưa nằm,
Ngày tháng mười không được cười nhạo.
2. Nhanh thì nắng, nhanh thì mưa.
3. Mỡ gà, giữ ở nhà.
4. Tháng bảy kiến chỉ lo lụt lội.
5. Tấc đất, tấc vàng.
6. Một của trì, hai của thị vệ, và ba của ruộng.
7. Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
8. Thứ nhất, thứ hai, thứ hai.
Đây chỉ là một số câu chọn lọc trong kho tàng ca dao tục ngữ vô tận. Qua những câu tục ngữ này, chúng ta bước đầu làm quen với những kinh nghiệm phong phú, đồng thời học cách nói ngắn gọn, có vần, dễ nhớ, dễ thuộc của người xưa.
Tám câu tục ngữ nói trên thuộc hai nhóm có hai nội dung liên quan chặt chẽ với nhau. Các hiện tượng tự nhiên như mưa, nắng, bão, lũ… ảnh hưởng trực tiếp đến việc trồng trọt, chăn nuôi của người nông dân. Bốn câu đầu nói về thiên nhiên, bốn câu cuối nói về lao động sản xuất.
Tổng hợp đáp án câu tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất lớp 7
Châm ngôn 1 : Đây là kinh nghiệm về đặc điểm thời tiết các mùa trong năm:
Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
Ngày tháng mười không được cười nhạo.
Nghĩa đen của câu tục ngữ này là: Tháng năm (âm lịch) thì đêm ngắn ngày dài, tháng mười đêm dài ngày ngắn. Cách nói phóng đại có tác dụng nhấn mạnh đặc điểm ấy: không nằm thì sáng, không cười thì tối. Sự đối xứng giữa hai câu làm nổi bật sự tương phản về tính chất của đêm hè và ngày đông.
Có thể vận dụng nội dung câu tục ngữ này để tính toán, sắp xếp công việc hay giữ gìn sức khỏe trong mùa hè và mùa đông.
Châm ngôn 2: Như một nhận xét và kinh nghiệm phán nắng mưa:
Muốn thì nắng, không muốn thì mưa.
Câu này có tính đối xứng hai vế, nhấn mạnh ý: Sự khác biệt về mật độ sao trên bầu trời đêm hôm trước sẽ dẫn đến hiện tượng mưa, nắng những ngày sau cũng có sự khác biệt.
Tại sao trời lại nắng? Mậu có nghĩa là dày, nhiều. Của đêm đầy sao, ngày sau trời sẽ nắng.
Nếu không có ngôi sao, trời sẽ mưa: nếu không có ngôi sao, nghĩa là ít. Nếu có ít sao, ngày hôm sau trời sẽ mưa.
Nghĩa cả câu: Đêm hôm trước nhiều sao báo hiệu ngày sau trời nắng. Đêm trước ít sao, báo trước mưa ngày hôm sau.
Kinh nghiệm này được rút ra từ hiện tượng đoán thời tiết đã có từ lâu đời của nông dân ta và nó được áp dụng thường xuyên trong sản xuất nông nghiệp và đời sống hàng ngày. Nắm rõ thời tiết (mưa, nắng) để chủ động sắp xếp công việc. Vì những phán đoán về các hiện tượng tự nhiên phần lớn dựa trên kinh nghiệm nên không phải lúc nào cũng đúng.
Châm ngôn 3 : là kinh nghiệm của hiện tượng thời tiết trước cơn bão:
Nướng mỡ gà, giữ ở nhà.
Đó là màu vàng của những đám mây do ánh nắng mặt trời chiếu vào. Mỡ gà thường xuất hiện phía chân trời trước cơn giông bão. Nó như một điềm báo để người dân biết và chú ý giữ gìn nhà cửa cho chắc chắn nhằm giảm bớt những thiệt hại khủng khiếp do bão gây ra.
Câu tục ngữ này đã lược bỏ một số thành phần để tạo thành câu rút gọn, nhấn mạnh nội dung chính để mọi người dễ nhớ.
Dân gian không chỉ dựa vào hiện tượng mỡ gà mà còn dựa vào hiện tượng chuồn chuồn bay để đoán bão. Tục ngữ: Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay, mưa bão cũng đúc kết kinh nghiệm này.
Hiện ngành khí tượng có nhiều phương tiện khoa học hiện đại dự báo bão khá chính xác mà kinh nghiệm dân gian vẫn còn hiệu quả.
Châm ngôn 4: Kinh nghiệm về hiện tượng thời tiết trước lũ lụt:
Tháng bảy, kiến bò, chỉ lo lũ lụt.
Cứ đến tháng bảy (âm lịch) mà kiến bỏ tổ từng đàn lớn, kéo nhau từ chỗ thấp lên chỗ cao thì nhất định có lũ.
Ở nước ta, mùa lũ thường xảy ra vào tháng 8, có năm kéo dài đến tháng 9, tháng 10. Từ thực tế quan sát nhiều lần, người dân đúc kết thành một quy luật. Kiến là loài côn trùng rất nhạy cảm với sự thay đổi của khí hậu, thời tiết. Khi trời sắp có mưa lớn dài ngày, kiến từ trong tổ kéo đàn lũ ra, di chuyển nơi cư trú lên cao để tránh bị ngập lụt và để bảo tồn nòi giống.
Câu tục ngữ này chứng tỏ người xưa quan sát kỹ lưỡng những biểu hiện nhỏ nhất trong thế giới tự nhiên, từ đó rút ra những nhận xét chính xác, dần dần biến thành kinh nghiệm. Kinh nghiệm này nhắc nhở người dân chuẩn bị phòng lũ sau tháng 7 âm lịch.
Châm ngôn 5: Như nhận xét của một nông dân về giá trị của đất đai:
Một tấc đất, một tấc vàng.
Hình thức của câu tục ngữ này được rút gọn tối đa chỉ còn bốn chữ chia làm hai vế đối xứng nhau dễ hiểu, dễ nhớ. Nội dung của nó đề cao giá trị của đất canh tác.
Tắc là một đơn vị đo cũ trong dân gian bằng 1/10 mét. Đất đai là đất đai để canh tác. Một tấc đất: một tấc đất rất nhỏ. Vàng là một kim loại quý thường được đo bằng quy mô cực nhỏ, hiếm khi tính bằng yard. Một tấc vàng chỉ lượng vàng lớn, vô cùng quý giá. Câu tục ngữ đã lấy cái có giá trị rất nhỏ (tấc đất) để so sánh với cái có giá trị lớn (tấc vàng) để khẳng định giá trị của ruộng đất đối với người nông dân. Nghĩa của cả câu là: một miếng đất nhỏ bằng một lượng vàng lớn. Đất quý như vàng, có khi còn quý hơn vàng.
Đất đai quý vì nó nuôi sống con người. Người dân phải đổ mồ hôi, xương máu mới có được đất. Đất là một loại “vàng” đặc biệt, có khả năng sinh trưởng vô tận. Vàng thật có nhiều đến mấy cũng không đủ ngồi ăn (miệng ăn lở), trong khi vàng của đất thì khai thác từ đời này sang đời khác không bao giờ cạn.
Vì vậy, con người cần sử dụng đất một cách hiệu quả nhất.
Người ta có thể sử dụng câu tục ngữ này trong nhiều trường hợp. Ví dụ: phê phán hiện tượng lãng phí đất đai; để đề cao giá trị của đất và thể hiện sự gắn bó của người nông dân với đất.
Châm ngôn 6: Nhận xét, kinh nghiệm về hiệu quả của các hình thức chăn nuôi, trồng trọt:
Thủ vệ thứ nhất, thủ vệ thứ hai, tam canh.
Chuyển câu tục ngữ này từ Hán Việt sang Việt Nam, câu này có nghĩa là: thứ nhất làm cá, thứ nhì làm vườn, thứ ba làm ruộng. Thứ tự thứ nhất, thứ hai và thứ ba cũng là thứ tự lợi ích của việc nuôi cá, làm vườn và trồng lúa đối với người nông dân.
Trong số những nghề kể trên, nghề mang lại nhiều lợi nhuận nhất là nghề nuôi cá (trồng trọt), tiếp theo là nghề làm vườn (làm vườn), rồi đến nghề trồng trọt (nuôi trồng trọt).
Bài học rút ra từ câu tục ngữ trên là: Muốn làm giàu phải phát triển nghề nuôi trồng thủy sản. Trong thực tế, bài học này đã được áp dụng triệt để. Nghề nuôi tôm, cá ở nước ta ngày càng được đầu tư phát triển, thu lãi gấp nhiều lần so với trồng lúa.
Nhưng thứ tự trong các câu tục ngữ không phải nơi nào cũng áp dụng được mà chúng phụ thuộc vào đặc điểm địa lí tự nhiên của từng vùng. Ở vùng có đặc điểm địa lý phong phú thì việc sắp xếp theo thứ tự đó là hợp lý, nhưng với những nơi chỉ thuận lợi cho một nghề phát triển như làm vườn, trồng trọt thì vấn đề lại không giống như vậy. Vì thế. Tóm lại, con người phải linh hoạt, sáng tạo trong công việc để tạo ra nhiều của cải vật chất nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.
Châm ngôn 7 : Nội dung câu này khẳng định tầm quan trọng của các yếu tố cần thiết trong nghề trồng lúa:
Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
Liệt kê có tác dụng vừa chỉ rõ thứ tự, vừa có tác dụng nhấn mạnh vai trò của từng yếu tố. Các từ nhất, nhì, ba, tư có nghĩa là: thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư. Ý của cả câu là: Thứ nhất là nước, thứ hai là phân, thứ ba là siêng năng, thứ tư là hạt giống. Kinh nghiệm này được rút ra từ nghề trồng lúa nước, đó là đảm bảo đủ 4 yếu tố: nước, phân, giống, con, trong đó yếu tố quan trọng nhất là nước. Đủ nước thì lúa sẽ tươi tốt, mùa màng bội thu.
Câu tục ngữ trên giúp người nông dân thấy được tầm quan trọng của từng yếu tố cũng như mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố. Bài học kinh nghiệm này rất hữu ích đối với một đất nước mà phần lớn dân số sống bằng nghề nông. Nông dân chúng tôi cũng nhấn mạnh: Một tát nước, một bát cơm. Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân. Trồng cây là lao động, làm cỏ là công việc…
Châm ngôn 8: Kinh nghiệm trồng lúa nói riêng và trồng các loại cây trồng khác nói chung:
Thứ nhất, thứ hai, thứ hai.
Dạng câu tục ngữ này đặc biệt ở chỗ nó được rút gọn và chia thành hai vế đối xứng. Nội dung đề cao hai yếu tố căng và chín. Sau đó: là theo mùa. Thục: là đất canh tác phù hợp với từng loại cây. Nội dung câu tục ngữ này khẳng định rằng trong nghề nông, quan trọng nhất là thời vụ (thời tiết), thứ đến là đất canh tác.
Kinh nghiệm này đã ăn sâu vào thực tế sản xuất nông nghiệp nước ta. Trồng lúa cần gieo sạ đúng thời vụ và sau mỗi vụ thu hoạch cần tập trung cải tạo đất để chuẩn bị tốt cho vụ sau. Chỉ khi đó, sự vất vả của người nông dân mới được bù đắp bằng những mùa lúa bội thu.
Qua các câu tục ngữ trên, ta rút ra được đặc điểm chung về hình thức là ngắn gọn, thường dùng phép đối, có vần điệu nhịp nhàng nên dễ đọc, dễ nhớ. Có những câu không thể rút gọn thêm (VD: Một tấc đất, tấc vàng). Hình thức câu tục ngữ tuy ngắn gọn nhưng nội dung lại cô đọng, súc tích.
Hình ảnh trong tục ngữ thường cụ thể, sinh động. Người xưa thường dùng câu cảm thán để khẳng định nội dung cần biểu đạt. Ví dụ: Chưa nằm đã sáng; không cười trời đã tối; tấc đất; tấc vàng… Vì vậy, sức thuyết phục của câu tục ngữ càng cao.
Kinh nghiệm rút ra từ các hiện tượng tự nhiên và trong lao động sản xuất cho thấy từ xa xưa, người nông dân ta đã biết trồng trọt, chăn nuôi giỏi. Trên cơ sở thực tế, các em đã có những nhận xét chính xác về một số hiện tượng tự nhiên liên quan trực tiếp đến lao động sản xuất. Từ đó chủ động trong việc sắp xếp công việc của mình. Những kinh nghiệm quý báu trên có ý nghĩa thực tiễn lâu dài trong nông nghiệp. Ngày nay, kinh nghiệm thực tế kết hợp với những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến đã mang lại lợi ích to lớn cho người nông dân và góp phần đưa nước ta vào danh sách một trong những nước dẫn đầu về xuất khẩu gạo. Trên thế giới.
Bài văn mẫu hay nhất giải thích Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất lớp 7
Bài học mẫu 1
Người Việt xưa không chỉ biết cần cù lao động mà còn biết đúc kết kinh nghiệm bằng những câu ca dao tục ngữ ngắn gọn, dễ hiểu. Những câu tục ngữ này đã được truyền từ đời này sang đời khác và được lưu truyền cho đến ngày nay. Trong đó, tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất là một cụm tục ngữ phong phú về số lượng và đa dạng về nội dung.
Trước hết là những câu tục ngữ về thiên nhiên. Ông cha ta đã bao đời quan sát để rút ra những kinh nghiệm dự báo các hiện tượng thiên nhiên, thời tiết. Vào thời đó, chúng ta chưa có những kỹ thuật hiện đại để dự đoán các hiện tượng của thiên nhiên, nhưng với con mắt tỉ mỉ và óc quan sát khoa học, tổ tiên chúng ta đã đúc kết được những kinh nghiệm khi quan sát thiên nhiên. giống:
Mùa đông chớp chớp, gà gáy, mưa
Bão Đông vừa nhìn vừa chạy
Bão vào Nam, vừa làm vừa chơi
Giông bão miền Bắc, đổ lúa ra phơi
Bão tây, mưa bão
Các câu tục ngữ trên cho thấy khi phía đông chớp chớp, gà gáy thì trời sẽ mưa. Miền Đông hễ có mưa là phải vừa chạy vừa trông, miền Nam mưa thì mưa đến chậm hơn, các bạn cứ thong thả, miền Bắc không mưa, miền Tây mưa bão. Hay những câu nói về thời gian của thiên nhiên như: “Đêm tháng năm chưa nằm/ Ngày tháng mười chưa cười đã tối”…
Bên cạnh những câu tục ngữ về thiên nhiên là những câu tục ngữ về lao động sản xuất. Ông cha ta đã tích lũy được những kinh nghiệm như: “Nhất nước, nhì dân, tam cần, tứ giống” hay “nhất thời, nhị hậu”, “làm bền gốc rễ”, “con trâu làm đầu”… Nước Ta vốn là nền nông nghiệp lúa nước nên những câu tục ngữ xoay quanh công việc đó. Trong canh tác lúa, yếu tố quan trọng nhất không phải là giống mà là nước, sau đó là phân bón và công chăm sóc của con người. Con trâu được coi là tài sản quý của người Việt cổ, không có trâu thì không thể lao động được.
Tóm lại, qua đây ta thấy được kinh nghiệm của cha ông ta trong việc nhìn nhận các hiện tượng tự nhiên và lao động sản xuất. Từ những kinh nghiệm này chúng ta có thể biết phải làm gì để nâng cao năng suất lúa và dự đoán các hiện tượng tự nhiên đơn giản.
Bài học mẫu 2
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, tục ngữ chiếm một vị trí quan trọng và có số lượng khá lớn. Nó được coi là kho tàng kinh nghiệm và trí tuệ dân gian. Khác với ca dao – dân ca thiên về thể hiện tình cảm con người, tục ngữ mang tính chất trí tuệ, triết lý. Những triết lí, trí tuệ trong tục ngữ bắt nguồn từ cuộc sống phong phú, sinh động nên nội dung cũng như hình thức của tục ngữ không hề khô khan mà nó vẫn như một cây xanh của sự sống.
Tục ngữ Việt Nam có nhiều chủ đề. Trong đó có những câu tục ngữ về thiên nhiên, lao động sản xuất, con người và xã hội.
1. Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất
Đọc qua một lần chùm tục ngữ – tám câu – mà SGK giới thiệu, ta thấy: về hình thức, tục ngữ là một câu nói, diễn đạt một ý trọn vẹn, thể hiện một nhận xét, một nhận định, một kết luận về một quy luật nào đó. Tục ngữ rất ngắn gọn, có câu chỉ bốn âm tiết (như Tấc đất, Tắc vàng). Cấu trúc tiếng, thanh trong tục ngữ bền vững, có hình ảnh, nhịp điệu, dễ nhớ, dễ lưu truyền (thoắt thì nắng, vắng thì mưa; nhất nước, nhị đoạn, tam can. , tứ, v.v.) ). Hầu hết các câu tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất chỉ có nghĩa đen, nghĩa cụ thể gắn trực tiếp với hiện tượng mà nó phản ánh. Tuy nhiên, vẫn có một số câu ngoài nghĩa đen còn có nghĩa bóng, nghĩa gián tiếp, hàm ý, tượng trưng. Nhân dân ta sáng tạo ra câu tục ngữ nhằm mục đích gì? Tục ngữ được nhân dân sử dụng trong mọi hoạt động của đời sống để nhìn nhận, ứng xử, rèn luyện và làm cho lời nói của mình thêm đẹp, sinh động, sâu sắc và ấn tượng đối với người nghe. Với tám câu tục ngữ trong bài, có thể chia thành hai nhóm:
Nhóm 1: Câu 1,2, 3, 4 là những câu tục ngữ về thiên nhiên, nêu kinh nghiệm, nhận xét, dự báo thời tiết.
Nhóm 2: Câu 5, 6, 7, 8 là những câu tục ngữ về lao động sản xuất, đúc kết những kinh nghiệm trồng trọt, phát triển mùa màng đem lại ấm no, hạnh phúc cho con người.
Tuy là kinh nghiệm dân gian nhưng hầu hết các câu tục ngữ về thiên nhiên đều dựa trên quy luật vận động của trái đất, gió, nắng, mưa, không khí và hoạt động của côn trùng. chim chóc, thực vật. Như vậy về cơ bản, thông tin dự báo thời tiết trong câu tục ngữ là khá chính xác. Chẳng hạn, câu tục ngữ:
Tháng bảy, kiến bò, chỉ lo lũ lụt.
Ở nước ta, mùa lũ thường bắt đầu từ tháng 6 kéo dài đến tháng 7 (âm lịch). Từ quan sát thực tế, nhân dân ta đúc kết quy luật: Tháng bảy kiến bò nhiều là điềm báo mưa to, gió lớn, lũ lụt. Tại sao có “lũ” khi “kiến bò”? Vì kiến rất nhạy cảm với sự thay đổi thời tiết nhờ cơ thể chúng có những tế bào chuyên biệt. Khi sắp có mưa to, kéo dài, khí hậu ẩm ướt, đàn kiến từ tổ cũ, nhất là những tổ thấp, kéo hàng dài bò đi tránh mưa, về làm tổ mới ở nơi an toàn. Lũ lụt là thiên tai thường xảy ra ở nước ta. Vì vậy, nhân dân ta thường có ý thức quan sát mọi diễn biến của thời tiết, mọi biến đổi của muôn loài – từ con vật nhỏ bé nhất như con kiến, để chủ động phòng chống lũ lụt. Tục ngữ dự đoán thời tiết của nước Việt ta vô cùng phong phú. Câu tục ngữ trên dùng cách nói tả thực, tả thực. Có nhiều câu dùng từ phóng đại: Đêm tháng năm chưa nằm – Ngày tháng mười tối tiếng cười tối, hoặc dùng vần thơ lục bát Chuồn chuồn bay thấp ắt mưa – Bay cao, trời nắng, vừa thì râm…thú vị.
Câu tục ngữ về lao động sản xuất mà trước hết là sản xuất nông nghiệp còn có nhiều điều hay khác. Ví dụ: Một tấc đất, tấc vàng là câu văn ngắn gọn, cô đọng, được kết cấu theo kiểu so sánh phóng đại, nhấn mạnh. Một tấc đất là một mảnh đất rất nhỏ, theo cách tính diện tích xưa chỉ rộng khoảng 2,4m2 (miền Bắc), hay 3,3m2 (miền Trung). Vàng là một kim loại quý, thường được đo bằng thang siêu nhỏ, hiếm khi tính bằng inch hoặc yard. Một tấc vàng là một lượng vàng lớn, vô cùng quý giá. Có câu tục ngữ lấy cái rất nhỏ (tấc đất) bằng cái rất lớn (tấc vàng). Theo lẽ thường, người ta thường coi thường đất đai và coi trọng vàng bạc. Sử dụng thành ngữ Tấc đất tấc vàng, nhân dân ta nhấn mạnh giá trị của đất đai. Tại sao ? Vì đất đai là nơi chúng ta ở, nơi chúng ta sản xuất. Bằng bàn tay và trí tuệ, tinh thần lao động, từ một mảnh đất nhỏ, chúng ta làm nên cơm áo, gạo tiền, làm nên của cải, mang lại cuộc sống ấm no. Vì vậy, đất là vàng, là loại vàng sinh trưởng và phát triển. Người có vàng, ăn mãi cũng hết (miệng ăn lở). Vàng trong đất được khai thác mãi mãi. Câu tục ngữ đó vừa phê phán ai đó lãng phí đất đai, không chịu chăm chỉ lao động sản xuất, đồng thời đề cao giá trị của đất đai, đặc biệt là đất đai ở những nơi được thiên nhiên ưu đãi về thời tiết, địa lý. dáng và màu mỡ, dễ trồng, dễ kinh doanh.
Cùng với cách nhìn nhận, đánh giá giá trị của đất đai, cha ông ta còn đúc rút nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp bằng những câu tục ngữ ngắn gọn, tương tự:
Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
Đây là 4 khâu quan trọng trong quá trình làm nên cây lúa, hạt gạo trên đồng ruộng Việt Nam. Theo cách trên, cha ông ta đã sắp xếp thứ tự tầm quan trọng của 4 yếu tố, cũng có thể gọi là 4 quy trình kỹ thuật, 4 điều kiện và 4 nguyên nhân để sản xuất thành công. Đầu tiên là “ruộng phải có nước”, nước dồi dào và đủ đầy. Thứ hai là “ruộng phải bón”, bón đúng lúc, bón đủ nhu cầu. Rồi phải siêng năng, cần mẫn vun xới, nhổ cỏ, trừ sâu bệnh, theo dõi từng bước sinh trưởng của cây. Cuối cùng, điều thứ tư: phải coi trọng giống lúa, giống cây trồng. Tất nhiên, trong khoa học nông nghiệp ngày nay, thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư đó không phải là máy móc, lúc nào cũng thế, nơi nào cũng vậy… Tuy nhiên, quy trình bốn yếu tố nước, phân, cần, giống phải luôn đầy đủ, hài hòa; Đây là những kinh nghiệm quý báu giúp cho các kỹ sư, chiến sĩ nông nghiệp trên đồng ruộng Việt Nam ngày nay làm tốt nhiệm vụ sản xuất lúa gạo, đem lại ấm no cho nhân dân ta, đất nước ta.
Chỉ cần điểm qua một vài câu tục ngữ đặc sắc như vậy, chúng ta cũng hiểu rằng: ngắn gọn, có vần điệu, giàu hình ảnh, những câu tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất đã phản ánh, chuyển tải. những kinh nghiệm quý báu của nhân dân trong việc quan sát các hiện tượng thời tiết và trong sản xuất nông nghiệp. Những câu tục ngữ này là hài thực tế, là hành trang, là “túi khôn” của nhân dân lao động, giúp ông cha ta cũng như chúng ta ngày nay dự báo thời tiết, nâng cao năng suất lao động.
2. Tục ngữ về con người và xã hội
Về nghệ thuật, so với tám câu tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất, tuyển tập tục ngữ gồm 9 câu về con người và xã hội sử dụng biện pháp hay hơn: so sánh nhiều phương diện (Một bí mật là mười khía cạnh của đời sống con người). , Học thầy không dạy bạn, Thương người như thể thương thân); sử dụng hình ảnh ẩn dụ, đa nghĩa (Đói cho sạch, rách cho thơm, Ăn quả nhớ kẻ trồng cây); sử dụng cách gieo vần nhẹ nhàng (Một cây làm chẳng nên non – Ba cây chụm nên hòn núi cao);… Bằng rất nhiều biện pháp nghệ thuật sinh động, dưới hình thức nhận xét, dặn dò, ông cha ta đã truyền đạt rất nhiều bài học bổ ích về cách nhìn người, cách học tập, cách sống và ứng xử hàng ngày. Đó là tấm lòng của người xưa, một cuốn sách giáo dục công dân giản dị mà sâu sắc cho học sinh chúng em. Đọc 9 câu tục ngữ mà SGK chọn lọc ta thấy câu nào cũng hay, câu nào cũng dạy cho ta bài học đạo lí rất thiết thực.
Câu một, câu hai:
– Một mặt người bằng mười mặt người
– Cái răng, cái tóc là góc con người
dạy chúng ta biết quý trọng nhân cách và thân thể của mỗi người.
Các câu 3, 4, 5, 6 khuyên chúng ta phải rèn luyện, tu dưỡng, học tập để trở thành người tốt, có ích trong cuộc sống.
Các câu 7, 8, 9 dạy ta cách đối xử yêu thương, nhân ái, đoàn kết với mọi người, v.v.
Trong số những lời khuyên của 9 câu tục ngữ này, đối với học sinh, có lẽ câu 5 và 6 là thiết thực nhất:
– Không nên thầy ạ.
– Học thầy không bằng tày học bạn.
Hai câu tục ngữ đó nói về hai đối tượng – người thầy và người bạn – mà mỗi học sinh hàng ngày cần phải quan tâm và cư xử đúng mực. Vì vậy, chúng thường đi đôi với nhau, tạo thành một cặp phản ứng hài hòa, dạy cho ta một bài học trọn vẹn. Câu đầu tiên Không, giáo viên yêu cầu bạn làm điều đó, nó phải là một câu hỏi tu từ, cấu trúc câu phủ định và thách thức. Tuy là một câu hỏi mang tính chất thách đố, phủ định nhưng người hỏi và đố muốn khẳng định rằng công lao dạy dỗ, giáo dục của các thầy, cô giáo đối với học sinh là vô cùng to lớn. Thầy, cô giáo dạy ta về tri thức, rèn luyện ta về đạo đức, về cách sống, từ đó giúp ta trưởng thành nên người, làm nên sự nghiệp có ích cho bản thân, gia đình và đất nước. Tóm lại, mọi thành công, mọi việc chúng con làm được trong hiện tại và tương lai đều nhờ công sức và tấm lòng của thầy. Vì vậy, học trò đang học cũng như người lớn phải kính trọng thầy mà tìm thầy để học. Câu tục ngữ thứ hai Theo nghĩa gốc, câu đó nhấn mạnh rằng học theo bạn, học theo bạn nhiều khi hay hơn, thuận lợi hơn, hiệu quả hơn học thầy. Điều đó không có nghĩa là hạ thấp việc “tầm sư học đạo”, coi trọng bạn hơn thầy, mà muốn nhấn mạnh đến một đối tượng khác, một phạm vi khác, trong quá trình học tập và rèn luyện của con người. Với bạn bè, chúng tôi gần gũi hơn, chúng tôi có thể đặt câu hỏi, chúng tôi có thể học hỏi ở nhiều nơi, nhiều lần và nhiều thứ hơn là với giáo viên. Đồng thời, tôi và bạn bằng tuổi nhau, dễ đồng cảm và hiểu nhau hơn. Bạn cũng là một sự tương tự của chính chúng ta. Thành công, thất bại, buồn vui của các bạn, chúng tôi dễ dàng thấu hiểu và cảm thông hơn. Câu tục ngữ khuyến khích, mở rộng đối tượng, phạm vi và cách học, khuyên chúng ta về việc tìm bạn, kết bạn để học hỏi, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Hai câu tục ngữ trên nói về hai đối tượng khác nhau, hai phương pháp khác nhau. Nhưng tất cả đều nhấn mạnh một nội dung là “phải chăm học và biết cách học”. Câu một vừa nhấn mạnh công lao to lớn của thầy, vừa chú ý đến việc học của thầy. Câu thứ hai nói về tầm quan trọng của việc học bạn bè. Đứng cạnh nhau, thoạt nhìn tưởng mâu thuẫn với nhau, nhưng thực ra lại bổ sung cho nhau. Người học trò khôn phải luôn ghi nhớ công ơn của thầy, biết tự giác “học thầy”, đồng thời phải biết kính, yêu bạn để “học bạn” một cách thường xuyên, mạnh dạn, thực tâm tìm tòi chứ không giấu dốt, cũng không kiêu căng. Càng ngẫm nghĩ, chúng ta càng thấy cha ông ta đã tích lũy được một kinh nghiệm vô cùng quý báu, dạy cho chúng ta một bài học, một lối sống vừa truyền thống vừa hiện đại. Với những câu tục ngữ khác trong chùm ca dao tục ngữ về Con người và xã hội, chúng ta cũng có thể rút ra nhiều điều bổ ích tương tự.
Tục ngữ về con người và xã hội thường giàu hình ảnh so sánh, ẩn dụ, ước lệ, cách dùng từ, đặt câu khá linh hoạt, ngắn gọn nhưng nhiều tầng nghĩa. Những câu tục ngữ này luôn quan tâm đến việc tôn vinh giá trị con người, đưa ra những nhận xét, lời khuyên về những phẩm chất, lối sống mà con người cần phải có…
Một nhà nghiên cứu văn học nước ngoài đã nói: “Tục ngữ có bao nhiêu ý nghĩa, bấy nhiêu hiện tượng phong phú… và tất cả chúng đều được gieo trồng trên một vùng ngôn ngữ nhỏ bé như thế”. Bác Hồ kính yêu của chúng ta cũng đã dạy: Mỗi tác phẩm văn học dân gian là một viên ngọc quý. Học truyện dân gian lớp 6, học ca dao học kì I lớp 7, giờ học tục ngữ, chúng ta vô cùng thích thú khi thấy biết bao viên ngọc lấp lánh trên các lĩnh vực ngôn ngữ. ngôn ngữ rộng hẹp khác nhau, từ đó ta hiểu và tiếp thu nhiều điều quý giá về cuộc đời, cách sống, qua đó ta cố gắng học hỏi thầy cô, bạn bè, từ quá khứ, từ hiện tại… để không ngừng tiến bộ…
Xem thêm: Soạn bài 18 SGK Ngữ văn lớp 7
Đăng bởi: THPT Lê Hồng Phong
Thể loại: Giáo dục